Ông
Táo trong truyền thuyết và phong tục Việt
Cứ
mỗi khi năm hết Tết đến thì nhà nhà Việt Nam theo
phong tục lại làm lễ
cúng Ông Táo về trời. Đây là một phong
tục thuần Việt có từ thời Hùng
Vương dựng nước và còn giữ lại trong truyền thống văn
hóa Việt đến ngày
nay.Bằng chứng gián tiếp cho điều này là từ thời
Hùng vương thứ VI, vua
Hùng đã chấm giải nhất cho hoảng tử Lang Liêu
là người kế vị và bánh
chưng bánh dày do hoàng tử Lang Liệu được đặc biệt
dùng cúng tổ tiên
trong ngày Tết.Từ đó, chúng ta dễ dàng suy
ra rằng: Lễ Tết nguyên đán
có từ thế kỷ XV trước CN – tương đương thời vua Bàn Canh
của Ân Thương.
Từ đó chúng ta dễ dàng đặt vấn đề với lễ
cúng Ông Táo về trời liên hệ
đến ngày giáp Tết phải là phong tục của người Việt
từ thời xa xưa.Bởi
vì, khi nền văn minh Hoa Hạ tiếp quản được nền văn minh ở Nam
Dương Tử,
đã Hán hóa những giá trị văn hóa
Việt trong hơn 1000 năm và tiếp tục
duy trì đến bây giờ, ở vùng đất cũ của Văn Lang
xưa, khiến không ít
người ngộ nhận tục cúng ông Táo là của người
Hán. Nhưng chính vì nguồn
gốc tục cúng Ông Táo trong văn hóa
Hán chỉ là sao chép lại từ văn hiến
Việt. Nên nó chỉ là một tín ngưỡng thuần
túy và không mang tính minh
triết liên hệ với nội dung của nó.
Ngược
lại, truyền thuyết của dân tộc Việt với hình ảnh
Táo quân “Hai ông, một
bà” và nội dung của nó lại trùng khớp
hoàn toàn về nội dung với những
giá trị minh triết Đông phương của chính cái
mà người ta gọi là có
nguồn gốc Hán.Chúng ta hãy xem lại truyền thuyết
có dấu ấn cổ xưa nhất
về ông Táo còn lưu truyền trong văn hóa
Việt. Tóm lược như sau:
Trọng
Cao có vợ là Thị Nhi ăn ở với nhau đã lâu
mà không con, nên sinh ra
buồn phiền, hay cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao giận
quá, đánh vợ. Thị
Nhi bỏ nhà ra đi sau đó gặp và bằng lòng
làm vợ Phạm Lang. Khi Trọng
Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi
tìm vợ. Khi đi tìm vì
tiền bạc đem theo đều tiêu hết nên Trọng Cao đành
phải đi ăn xin.Khi
Trọng Cao đến ăn xin nhà Thị Nhi, thì hai bên nhận
ra nhau. Thị Nhi
rước Trọng Cao vào nhà, hai người kể chuyện và Thị
Nhi tỏ lòng ân hận
vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng.Phạm
Lang trở về nhà, sợ chồng bắt
gặp Trọng Cao nơi đây thì khó giải thích,
nên Thị Nhi bảo Trọng Cao ẩn
trong đống rơm ngoài vườn. Phạm Lang về nhà liền ra đốt
đống rơm để lấy
tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra
nên bị chết thiêu. Thị Nhi
trong nhà chạy ra thấy Trọng Cao đã chết bởi sự sắp đặt
của mình nên
nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo.Phạm Lang
gặp tình cảnh quá
bất ngờ, thấy vợ chết không biết tính sao, liền nhảy
vào đống rơm đang
cháy để chết theo vợ.Ngọc Hoàng cảm động trước mối
chân tình của cả ba
người, (2 ông, 1 bà), và cũng cảm thương cái
chết trong lửa nóng của
họ, ngài cho phép họ được ở bên nhau mãi
mãi bèn cho ba người hóa thành
“ba đầu rau” hay “chiếc kiềng 3 chân” ở nơi nhà bếp của
người Việt ngày
xưa.Từ đó, ba người ấy được phong chức Táo Quân,
trông coi và giữ lửa
cho mọi gia đình, đồng thời có nhiệm vụ trông nom
mọi việc lành dữ,
phẩm hạnh của con người. Táo Quân, còn gọi
là Táo Công, là vị thần bảo
vệ cho cuộc sống gia đình, thường được thờ ở nơi nhà bếp,
cho nên còn
được gọi là Vua Bếp.
Theo
tục lệ cổ truyền, người Việt tin rằng, hàng năm, cứ đến
ngày 23 tháng
Chạp âm lịch, Táo Quân lại cưỡi cá
chép bay về trời để trình báo mọi
việc xảy ra trong gia đình với Ngọc Hoàng. Cho đến
đêm Giao thừa Táo
Quân mới trở lại trần gian để tiếp tục công việc coi
sóc bếp lửa của
mình.Vị Táo Quân quanh năm ở trong bếp nên
biết hết mọi chuyện hay dở
tốt xấu của mọi người. Cho nên để Vua Bếp “phù trợ” cho
mình được nhiều
điều may mắn trong năm mới, người ta thường làm lễ tiễn đưa
Ông Táo về
chầu Ngọc Hoàng rất trọng thể.Người ta thường mua hai mũ
Ông Táo có hai
cánh chuồn và một mũ dành cho Táo Bà
không có cánh chuồn, ba cái áo
bằng giấy cùng một con cá chép (còn sống
hoặc bằng giấy, hoặc cũng có
thể dùng loại vàng mã gọi là “cò bay
ngựa chạy”) để làm phương tiện cho
“Vua Bếp” lên chầu trời.Ông Táo sẽ tâu với
Ngọc Hoàng về việc làm ăn,
cư xử của mỗi gia đình dưới hạ giới. Lễ cúng thường diễn
ra trước 12h
trưa, sau khi cúng xong, người ta sẽ hóa vàng đồ
lễ, nếu có cá sống thì
sẽ đem thả xuống sông, hồ, biển hay giếng nước, tùy theo
khu vực họ
sinh sống.Càng tiến dần vào trong Nam thì tục
cúng ông Táo về trời có
một chút thay đổi. Nhưng lễ cúng Táo Quân ở
miền Bắc với một nghi lễ
không thể thiếu là Cá Chép thì mang
tính nguyên thủy hơn cả.Qua truyền
thuyết của dân tộc Việt truyền lại, chúng ta thấy rằng
hình ảnh hai ông
một bà – tức một Âm hai Dương hoàn toàn
trùng khớp với quẻ Ly trong
Kinh Dịch.
Vết
lõm trên ông đầu rau trong bếp Việt xưa
Ba
vị Táo quân trong phong tục Việt cũng phù hợp với
thực tế cái bếp xưa
của Việt tộc cũng chỉ có ba miếng đất gọi là: Ông
Đầu rau.Một trong
những nét độc đáo khi tạo ba ông đầu rau để nấu bếp
là khi nặn bao giờ
người thợ nặn cũng lấy ngón tay ấn nhẹ vào giữa một trong
ba ông này,
tạo thành một vết lõm tròn. Và ông
đầu rau có vết lõm đó bao giờ cũng
đặt vào giữa.
Bây
giờ, bếp ga, bếp dầu ầm ầm. Xưa nhất cũng là cái kiềng ba
chân bằng sắt
phổ biến ở thành thị. Ông Đầu rau bằng đất dù ở
vùng sâu, vùng xa cũng
chắc không còn nữa. Huống chi một vết nhấn tròn
giữa một ông đầu rau,
chắc chẳng ai còn nhớ. Cho nên, điều mà người viết
nói ở đây, may ra
chỉ còn trong ký ức của những người cao niên, ở một
miền quê xa xôi nào
đó.Ý nghĩa của vết lõm này chính
là dấu hiệu của tính bao trùm mà tiếng
cổ Việt ngày xưa gọi là “Cái’. Tức Táo
bà. Quẻ Ly thuộc Dương, nhưng
lại ở phía dưới Hà Đồ, nên tính Âm mới
bao trùm lên tất cả. Bởi thế
tính Âm mới làm cái trong ba ông Đầu
rau. Chính vì vậy, Ly là Trung
Nữ.Trong bức tranh dân gian Việt mà các bạn thấy ở
trên táo bà ngồi
giữa hai ông thì trong quẻ Ly hào Âm cũng
đứng giữa. Quẻ Ly thuộc Hỏa
nên biểu tượng cho bếp cũng thuộc Hỏa. Biểu tượng trong truyện
dân gian
“cả ba người cùng chui trong đống lửa” đấy chính
là hình tượng của ba
ông đầu rau trong bếp mỗi nhà.
Lạc Thư Chu
Dịch trong phong tục cúng Táo Quân
của người
Việt
Một
hình ảnh gắn liến với lễ Táo Quân chính
là con cá chép. Tại sao về trời
mà Táo quân lại cưỡi cá chép? Sao
không phải là cưỡi chim? Ông cha ta
có lầm lẫn gì không? Hoàn toàn
không! Không lầm lẫn, khi mà tổ tiên
người Việt đã để lại cho hậu thế một nền văn hiến vĩ đại. Con
cá chép
thuộc hành thủy. Trong những di sản văn hóa phi vật thể
là những bức
tranh dân gian Việt chúng ta thấy tranh đàn lợn với
một lợn mẹ và năm
lợn con. Đây chính là hình tượng của
“Thiên Nhất sinh thủy – Địa lục
thành chi”. Chúng ta cũng thấy hình tượng
này trong tranh cá chép làng
Đông hồ: Một con cá mẹ với năm con cá con.
Cá
thuộc hành Thủy, tượng của quẻ Khảm:Và hình tượng
Táo quân cưỡi cá
chép, chính là biểu tượng của quẻ Hỏa Thủy Vị tế
trong kinh Dịch. Đây
là quẻ cuối cùng kết thúc một chu kỳ 64 tư quẻ
Dịch. Biểu tượng cho chu
kỳ tuần hoàn của tạo hoá trong một năm đã kết
thúc và chuyển sang một
chu kỳ mới và mọi việc vẫn còn tiếp tục để một năm mới
tốt lành. Đó là
tinh thần của quẻ Vị Tế.
Tại sao Ông Táo lại về trời lại là ngày 23 tháng Chạp mà không phải là ngày 30? Theo lý học Đông phương đó là ngày Nguyệt Kỵ. Vậy Táo quân chọn đúng ngày này lên trời có sai không?
<!--[if !supportLineBreakNewLine]-->
<!--[endif]-->
Tại sao Ông Táo lại về trời lại là ngày 23 tháng Chạp mà không phải là ngày 30? Theo lý học Đông phương đó là ngày Nguyệt Kỵ. Vậy Táo quân chọn đúng ngày này lên trời có sai không?
<!--[if !supportLineBreakNewLine]-->
<!--[endif]-->
Ngày
23 tháng Chạp, Ông Táo về trời
Sách
cổ chữ Hán chỉ ghi nhận mùng 5, 14, 23 là
ngày Nguyệt kỵ và không một
lời giải thích. Trong truyền thuyết dân gian Việt
thì cho rằng “Đó là
những ngày vua đi, nên kiêng ra đường”.Tôi
đã chứng minh trong một tiểu
luận rằng: đây chính là phép du niên
phiên tinh ngày, tính theo tháng.
Ngày của sao Ngũ Hoàng nhập trung theo chu kỳ cửu cung.
“Vạn vật qui ư
thổ” hay nói theo thuyết Âm Dương Ngũ hành
thì đây chính là ngày kết
thúc chu kỳ của Ngũ Hành vào tháng cuối
cùng trong Năm.Kết thúc chu kỳ
Ngũ hành vào ngày 23, đồng thời cũng là kết
thúc chu kỳ của 64 quẻ
Dịch. Hành thổ thuộc trung cung thuộc ngôi Hoàng
cực chi phối Ngũ Hành
– Theo Lý học Đông phương – thuộc về Hoàng tộc,
nên là ngày của Vua Bếp
– Táo Quân về trời.
Y phục của Táo
Quân và vì sao Táo Quân không
mặc quần?
Bức
tranh dân gian Việt ở trên vẽ ba vị Táo Quân,
đều mặc quần nghiêm
chỉnh, với những hàng chữ Hán phía trên. Bức
tranh này hẳn được sáng
tác kể hàng ngàn năm sau khi nền văn minh Văn Lang
sụp đổ ở miến Nam
sông Dương Tử. Bởi vì, trong phong tục còn giữ lại
được đến ngày nay
trong dân gian Việt thì Táo Quân không
mặc quần. Điều này cũng giống
như hàng ngàn năm trôi qua, những con rối nước
trong văn hóa dân gian
Việt được vẽ cái vạt áo bên phải vậy. Hiếm lắm,
trong kho tàng chất
những con rối nước cổ bỏ đi, may ra còn những con rối xưa
cài vạt áo
bên trái. Vậy Táo Quân không mặc quần
có ý nghĩa gì trong truyền thống
Việt?Lịch sử Trung Hoa ghi lại: chính cái quần là
của các dân tộc phía
Bắc Trung Hoa và không thuộc về y phục Hán cổ.
Vào cuối thời Xuân Thu,
đầu thời Chiến Quốc, Triệu Vũ Vương mới đưa cái quần vào
làm y phục
chính thức của nước Triệu. Và y phục này
thích hợp với các chiến binh
trong các cuộc chiến liên miên giữa các quốc
gia so với vải quây che
phần thần dưới trước đó. Sau này chiếc quần mới phổ biến
trong thất
Quốc và do các chiến binh mặc và trở thánh
y phục của Trung Hoa.
Nhưng
Người Việt, với tư cách là một nhà nước độc lập ở
Nam Dương Tử, tất
nhiên không thể tiếp thu một cách nhanh chóng
y phục quần của các dân
tộc phi Hán ở Phương Bắc Trung Quốc. Điều này cho thấy
rằng: phong tục
thờ Táo Quân phải có từ rất lâu, trước cả khi
dân tộc Hán bị xâm nhập
văn hóa mắc quần của các dân tộc phiá Bắc
này và còn giữ đến bây giờ.Và
điều này như tôi đã phân tích ở
trên: nó phải có trước thời Vua Hùng
Vương Thứ VI quyết định dùng bánh chưng bánh dầy
vào lễ Tết của dân tộc
Việt. Còn nếu như thời Hùng Vương chỉ ra đời vào
Thiên Niên kỷ thứ nhất
trước CN và Tết Việt Nam là văn hóa Hán
là chủ nhân đích thực của văn
hóa Đông phương thì ông Táo Việt
đã mặc quần như bức tranh dân gian
sáng tác về sau này mà bạn đọc đã
nhìn thấy ở trên.
Qua
sự minh chứng và phân tích ở trên,
chúng ta cũng nhận thấy rằng: đằng
sau một phong tục cổ truyền của dân tộc Việt – tục cúng
“Ông Táo về
trời” là cả một sự minh triết liên quan chặt chẽ đến nền
Lý học Đông
phương – mà từ lâu tôi đã minh chứng – thuộc
về nền văn hiến huyền vĩ
Việt, một thời huy hoàng ở miến Nam sông Dương Tử.
Có thể nói rằng:
không phải ngẫu nhiên mà có sự trùng
khớp hợp lý gần như toàn bộ nhứng
nét chính của phong tục cúng ông Công,
ông Táo với những quan niệm có
tính nguyên lý của Học thuật cổ Đông phương.
Sở dĩ có sự trùng khớp hợp
lý đến kỳ lạ này, chính vì nó
là hệ quả của nền minh triết Đông Phương
thuộc về nền văn hiến Việt được đưa vào cuộc sống văn hóa
Việt qua
phong tục cúng đưa “Ông Công, Ông Táo
về trời”.
Vấn
đề cũng không chỉ dừng lại ở đây. Khí chính
chiếc mũ Ông Công, Ông Táo
được bán đầy ở khắp kẻ chợ, thôn quê ngày nay
lại là một hình tượng
được cách điệu bằng giấy của chiếc mũ các vua Hùng
trên trống đồng Lạc
Việt:
Kỳ
diệu thay nền văn hiến Việt. Mong rằng các thế hệ sau đừng vội
quên đi
nguồn cội của thời Hùng Vương dựng nước mở đầu cho tập Việt sử
trải gần
5000 năm văn hiến.
NGUYỄN VŨ TUẤN ANH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét