Chuyến
bay nội địa Trung Hoa rời phi trường Hoàng Châu, vượt 2230 Km trong 1
giờ 40 phút, đưa đoàn du lịch 26 người bước xuống phi cảng Bạch Vân của
thành phố Quảng Châu giữa trưa ngày 24/01/2003.
Phi
cảng quốc tế Bạch Vân (Baiyun) vốn đã lớn rộng, trước mắt chúng tôi con
đường xây cất và giải tỏa ngoại vi trong kế hoạch phát triển thành sân
bay hiện đại nhất của Trung Quốc vào tháng 10/2003. Đến hôm nay, nếu so
sánh với các phi cảng quốc tế trong vùng Đông Nam Á về số lượng hành
khách và số lần tiếp nhận phi cơ quốc tế thì phi cảng Bạch Vân khấm khá
hơn các phi cảng Pudoug (ở Thượng Hải), Kuala Lumpur (Malaisia) và Tân
Sơn Nhất (Việt Nam); tương đương với các phi cảng Inchon (ỏ Hán Thành),
Narita (Nhật Bản), Hồng Kông International Airport và Don Muang (
Bangkok), nhưng khó có thể bắt kip phi cảng Changi ở Singapore cả về
phẩm và lượng (CT: Changi là sân bay sạch, đẹp và an ninh nhất thế giới,
mỗi năm tiếp nhận 40 triệu hành khách, nơi hạ cánh của 60 hảng hàng
không, có đường bay tới 146 địa điểm trên hoàn vũ). Phi cảng Bạch Vân đã
từng tiếp đón đại hội thể dục thể thao toàn quốc lần thứ 9 vào năm
2000.
Đi
tham quan, dù rất ít ỏi, những di tích và thắng cảnh trên một đất nước
rộng đến 10 triệu cây số vuông, buộc chúng tôi phải tính toán thời gian
và phương tiện di chuyển thật khít khao. Tuần trước, trên đường dài 1850
km từ Bắc Kinh đi Thượng Hải, chúng tôi lợi dụng chuyến tàu lửa ban đêm
để được ngon giấc trên toa giường trên lộ trình 14 giờ. Tuần này, chỉ
vợ tôi và tôi lợi dụng những giờ tự do mua sắm riêng và giờ ăn cơm chung
ở nhà hàng để đến viếng những nơi không ghi trong lịch trình du lịch,
như nhà kỷ niệm Tôn Văn, mộ phần Phạm Hồng Thái và viện Bảo tàng lăng mộ
Nam Việt Vương, sau khi đã điều nghiên trên bản đồ và tư liệu. Chủ đích
của người viết là quảng bá 2 di tích lịch sử Việt Nam tại nước ngoài.
Thành phố Quảng Châu là thủ phủ tỉnh Quảng Đông, là cửa ngõ lớn của miền Hoa nam, có đường biên giới chung với miền Bắc Việt Nam.
Diện tích T.p. Quảng Châu là 7.435km², chia thành 8 khu 8 huyện với dân
số 6.580.000 người. Đây là thành phố có nhiều Hoa kiều đang lập nghiệp
khắp nơi trên thế giới.
Quảng Châu thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa như khí hậu Việt Nam.
Nhiệt độ bình quân cả năm 21°7C (tức 69°F), mùa hè có gió mát, mùa đông
không quá lạnh. Địa thế thấp dần về tây-nam, bắc nhiều núi non, đông là
thung lũng và những dải đồi thấp, nam là đồng bằng phù sa của châu Tam
giác sông Châu giang.
Thành
phố Quảng Châu đã có 3000 năm lịch sử với tên gọi đầu tiên là Phiên
Ngung. Khi nhà Tần khống chế được dân Bách Việt trên địa bàn miền Nam
Việt bèn lập Phiên Ngung làm lỵ sở vùng Lĩnh Nam. Sang đầu nhà Hán, Triệu Đà cắt cứ vùng Lĩnh Nam đặt tên nước là Nam Việt, đóng đô tại Phiên Ngung mang tên là thành Việt. Đến thời Tam quốc, nước Ngô bá chiếm vùng Lĩnh Nam,
lập quận Giao Châu. Nước Ngô tu sửa thành Việt ở Phiên Ngung, dời thủ
phủ của châu từ huyện Quảng Tín về Phiên Ngung. Từ đó Phiên Ngung có tên
là Quảng Châu.
Thời
cổ, Quảng Châu còn có những tên khác như Sử Sở đình (tức trung tâm
quyền lực của nước Sở), Dương thành ( tức thành phố con dê). Nguyên do
từ chuyện thần thoại có 5 thần nhân bận y phục ngũ sắc mỗi vị một màu,
cưỡi trên 5 con dê màu lông khác nhau, mang theo ống sáo có chứa 6 loại
ngũ cốc và hoa quả, đem lại cho dân chúng trong vùng những mùa luá bội
thu và hoa quả phong phú. Ngày nay, để cầu mong sự sung túc như thần
nhân đã ban ơn phước, nên trong công viên Việt tú xinh đẹp có tượng 5
con dê rất vĩ đại, là biểu tượng cho thành phố Quảng Châu. Ở một cảnh
trí khác gần tượng 5 con dê là một bức bích họa về sinh hoạt nông trang
với vũ hội ngày được mùa, được chạm trổ trên bức tường đá dài hàng trăm
mét bên vách núi. Hôm ấy, cô hướng dẫn viên đã chỉ lên giỏ trái vải
trong hoạt cảnh trên đá và diễn ngâm 2 câu thơ (có mấy ai nghe được
tiếng quang thoại?), tôi phải yêu cầu cô viết ra Hán tự, xin ghi phiên
âm và tạm dịch:
Nhất kỵ hồng trần phi tử tiếu
Vô nhân tri thị lệ chi lai.
(Bụi cuốn dặm nghìn, cười nụ vương phi,
Nào ai hay kỵ mã hiến lệ chi)
Hai
câu thơ không chỉ nhắc đến trái vải ngon ngọt của Hoa nam mà còn nhắc
laị xì căng đăng” nơi cung điện dẫn đến biến loạn thảm khốc. Tướng An
Lộc Sơn phi ngựa ngày đêm bụi lốc, mang trái lệ chi vào cung hiến dâng
cho Dương Quí Phi là bà mẹ nuôi mà ông từng yêu trộm. Đến năm 755, quan
Tiết độ sứ An lộc Sơn làm phản, chiếm Lạc Dương rồi tiến chiếm kinh đô
Trường An để chiếm lấy Dương Quí Phi. Vua Đường Huyền Tôn đã quá mê say
nàng, bỏ kinh thành đem nàng theo, chạy vào đất Thục. Chạy đến Mã Ngôi,
tướng sĩ ép vua phải xử thắt cổ giết Dương Quí Phi xong, mới tiếp tục
chạy loạn.
Bốn
loại hoa quả ngon nổi tiếng vùng Lĩnh nam gồm: vải, cam, dứa, chuối
tiêu. Ngoài ra, nơi đây còn là quê hương đu đủ, nhãn, khế quýt. Hoa
tươi, rau xanh, thủy sản phẩm của Quảng Châu được bán rộng rãi trên toàn
quốc và xuất khẩu.
Quảng
Châu còn có tên là “thành phố HOA”, ở đây có hơn 60 giống hoa, từ hoa
hồng, kim cát, dạ hương, mễ lan... nở rộ cả bốn mùa nhờ khí hậu thích
hợp. Mộc miên được goị là “thị hoa” của thành phố Quảng Châu. Hàng năm,
cứ đến mùa Xuân, du khách trên thế giới lại nghĩ về “thành phố HOA” như
một điểm hẹn đầu tiên.
Ngày
nay, Quảng Châu là thành phố du lịch nổi tiếng, có nhiều khách sạn 5
sao đúng tiêu chuẩn quốc tế. Chúng tôi lưu ngụ tại khách sạn Lido hotel
(âm Việt đọc là Lạc đô) hạng 3 sao với 30 tầng, tại số 182 đường Bắc
kinh, cũng đã thấy tiện nghi và lịch sự lắm rồi! Tất cả các đểm tham
quan đều có bán vé vào cửa cho du khách. Những khu vực cảnh trí ngoạn
mục đáng kể như Bạch vân sơn la cương, Liên hoa sơn (núi hoa sen), suối
nước nóng Tùng hoa... Nhất là Dương thành bát cảnh được xây dựng từ thời
Tống. Năm 1986 Dương thành bát cảnh được bình chọn là thắng cảnh quốc
gia với lời giới thiệu: “Mây núi như giải lụa gấm, nước xanh trong như
pha lê, sóng lấp lánh dưới ánh mặt trời, động như rồng, rừng như ngọc,
lầu đài nguy nga. Mỗi cảnh mộ tên như Hồng lĩnh nhật xuất, Hoàng hoa hào
khí, Lưu hoa vương vũ, Hoàng phố vân tường”
Về
ẩm thực, Quảng Châu đã sớm nổi tiếng về cách ăn ngon, rất được ưa
chuộng ở trong và ngoài nước. Món ăn Quảng Châu là đại biểu cho món ăn
Việt, là 1 trong 8 vùng có nghệ thuật ẩm thực đặc sắc. Nguyên liệu trong
món ăn chính là ngũ cốc, hoa quả với các loại rau và cá thịt tươi mới,
phải quen chọn lựa về phẩm chất hơi cầu kỳ. Phối liệu và gia vị tinh tế
cho hương vị thơm ngon, mềm dẻo, giòn, có chút cay với cách trình bày
vào bát đĩa và đặc biệt trên bàn khéo léo, làm cho món ăn Quảng Châu
mang đầy đủ ý thơ nét họa, thể hiện rõ bản sắc và phong vị của văn hóa
Lĩnh nam.
Địa
lý thiên nhiên của Quảng Châu khá thuận lợi. Đây là thành phố hải cảng
kiêm giang cảng vì vừa nằm gần bờ biển Nam hải, vừa là nơi hội tựu của 3
con song Bắc giang, Đông giang và Tây giang cùng chảy ra cửa biển Hổ
môn (sông Tây giang có 2 phụ lưu là sông Bằng giang và sông Kỳ cùng chảy
qua 2 tỉnh Cao bằng và Lạng sơn nước ta).
Sông
Châu giang là con sông lớn thứ tư ở Trung quốc, chảy xuyên qua thành
phố Quảng Châu, có nơi tạo ra vùng nước mênh mông như biển hồ. Đây là
nơi liệt sĩ Phạm Hồng Thái của Việt Nam
đã từ trần sau khi thực hiện sứ mạng cứu quốc. Có đến 11 cây cầu và 2
đường hầm nối liền đôi bờ Châu giang trong nội thành Quảng Châu. Ban
đêm, đi du thuyền trên sông Châu giang như lạc vào thế giới kỳ ảo: gió
mơn man theo tiếng sóng vỗ rì rào, trăng sao trên trời rơi đáy nước, đèn
sáng lung linh muôn màu trong trong tán cây lá ven bờ, trên cao ốc và
chuyển động trên đường.
Đường
phố Quảng Châu rộng rãi, hiếm khi bị kẹt xe tắc nghẻn lưu thông, có
nhiều công viên và nhiều cây xanh tạo nên sự thoáng mát. Số lượng xe ô
tồ bằng ngang với số lượng xe đạp lưu hành đồng thời trên đường, trong
đó số lượng xe taxi khá lớn, được xem là phương tiện di chuyển của thị
dân và du khách. Quảng Châu là lò sản xuát xe gắn máy 2 bánh đời mới,
xuất cảng hàng triệu chiếc mỗi năm ra các nước lân cận., nhưng chính nơi
đây lại ít xe gắn máy, là điều đáng ngạc nhiên.
Quảng
Châu mở cửa giao lưu với ngoại quốc từ thời Trung cổ dưới triều đại
Tần, Hán đã rất phồn thịnh. Đặc sản qui hiếm vùng nhiệt đới như ngà voi,
tê giác, đồi mồi, châu ngọc, nhiều loại trái cây, nhất là lúa gạo từng
nổi tiếng trên thị trường đa quốc gia. Thời Tần đã có tuyến đường biển
Quảng Châu chạy thẳng đến vùng Đông nam Á và cả Nam Á. Đời Đường, giao
thông và mậu dịch đối ngoại của Quảng Châu đã phát triển mạnh mẽ, trở
thành thương cảng lớn nhất, là điểm xuất phát tuyến đường tơ lụa trên
biển của Trung quốc.
Dưới
chế độ cộng hòa nhân dân Trung hoa, từ thời Mao trạch Đông theo chính
sách kinh tế tập trung, đà phát triển bị đình đốn vì cung và cầu đều do
Đảng cộng sản chỉ huy ở mục tiêu tự cấp tự túc, do đó ngành thủ công
nghiệp và giao thông nội địa của Quảng Châu thay thế hẳn ngành ngoại
thương. Từ năm 1979, dưới thời Đặng tiểu Bình theo chính sách kinh tế mở
cửa, chính phủ Trung Hoa cho xây dựng ở tỉnh Quảng Đông 2 đặc khu kinh
tế Thẩm quyến và Chu hải cùng với trung tâm mậu dịch đối ngoại của toàn
quốc. Nhìn những thuận tiện địa lý, ai cũng nhận thấy toàn vùng đặc khu
kinh tế hợp thành quần thể kinh tế mạnh nhất Trung hoa, bao gồm:
• Thành
phố Chu hải nằm ở bờ tây Châu giang, phía đông cách Hồng kông 36 hải lý
(đảo Quế sơn ở phía đông Chu hải chỉ cách Hồng kông 3 hải lý), phía nam
giáp Ma cao, phía bắc giáp tam giác Châu giang phì nhiêu quay mặt ra
Nam Hải.
• Thành
phố Thẩm quyến nằm phía nam tỉnh Qủang đông, phía đông giáp vịnh Đại á,
phía tây liền với cửa sông Châu giang, phía bắc giáp thành phố Đông
hoàn huyện Huệ dương, phía nam cách Cửu long, Tân giới của Hồng kông một
con sông.
• Hồng
kông (chữ Hán Việt là Hương cảng) đã thâu hồi chủ quyền từ người Anh
ngày 1-7-1997 và thiết lập khu hành chánh đặc biệt, được giữ nguyên chế
độ chính trị cũ. Hồng kông là thành phố công thương nghiệp hiện đại, nằm
ở bờ biển đông nam tỉnh Quảng đông, ngay phía đông cửa sông Châu giang.
•
Ma cao được thu hồi chủ quyền từ Bồ đào Nha ngày 20-12-1999 và được
thiết lập khu hành chánh đặc biệt thuộc quyền quản lý của chính phủ
trung ương. Ma cao nằm phía tây nam cửa sông Châu Giang. Thời cổ Ma Cao
có tên là Hào Kính Áo, từ Hán Việt gọi là Áo môn.
Năm
1982, Quảng Châu được Quốc hội Trung hoa phê chuẩn là 1 trong 24 thành
phố lịch sử văn hóa, và tháng 3 năm 1984 có tên trong 14 thành phố mở
cửa ven biển. Do vị trí địa lý được thiên nhiên ưu đãi, nên hiện nay
thành phố Quảng Châu có vốn đầu tư nước ngoài đứng đầu Trung quốc. Hầu
hết các ngành công nghiệp đều có liên doanh với nước ngoài, đã đưa nền
công nghiệp nhẹ làm chủ thể, phát triển lên thành công nghiệp cơ khí
toàn diện. Quảng Châu nghiễm nhiên trở thành trung tâm công nghiệp miền
Hoa nam với 10 ngành công ngiệp kỹ nghệ tiên tiến: ngành chế tạo thiết
bị giao thông vận tải, ngành chế tạo vật dụng điện khí laser, ngành chế
tạo thiết bị điện tử thông tin, các cơ xưởng sản xuất ô tô, máy móc,
nguyên liệu và sản phẩm hóa học, các khu chế xuất y dược, thực phẩm, may
mặc, chế phẩm cao su, plastic...
Quảng
Châu vốn là thành phố thương mại tổng hợp với nền kinh tế thị trường
rất sôi động, những năm gần đây đã hình thành nhiều khu phố thương
nghiệp đa dạng rất đặc sắc như ở đường Giáo dục, đường Tây hồ, Hoàng
cương, phố lớn Sa há... chuyên doanh những mặt hàng thời trang, bách
hóa. Trên đường Trường thọ và phố Tân thắng có rất nhiều cửa hàng vàng
bạc, đá quí, đồ trang sức. Nếu muốn mua đồ sành sứ, hoa tươi... thì đến
đường khởi nghĩa, đường Đại nam. Trong những ngày và đêm gần đến tết
Nguyên đán năm Quí mùi (năm 20030, suốt đại lộ Bắc kinh biến thành chợ
Tết sầm uất với muôn vẽ muôn màu ngay trên mặt đường, đủ mọi hoa quả cây
cảnh, pháo tràng liên đối, bánh mứt cầu kỳ... Ngay đến các siêu thị
nhiều tầng ở hai bên đường cũng đầy ắp y phục thời trang, hàng trang trí
nội thất, hàng tiêu dùng cao cấp... Cùng lúc ấy, không ít người nhớn
nhác bày mấy món hàng trên tấm bao tải ở lề đường mời mọc người mua. Khi
cảnh vệ đến, họ tóm gọn cả vào bao, lẩn vào đám đông rồi lại bày bán
hàng ở lề đường nơi khác. Đó là một kiểu chợ Tết Quảng Châu, cùng lò với
kiểu Chợ lớn, Việt Nam.
Cũng
vào dịp này, tôi được chứng kiến cảnh dân chúng hàng hàng lớp lớp trên
mấy dậm đường, kéo nhau về quảng trường nhà ga xe lửa Quảng Châu để chực
mua vé, đáp tàu về quê ăn Tết. Tôi cảm thấy choáng ngợp trước rừng
người, dù là một góc rất nhỏ trong số 1 tỷ 300 triệu của Trung hoa. Đặc
biệt, trên nóc tòa nhà ga xe lửa, hai bên có 2 câu khẩu hiệu nổi rõ lên
nền trời: “Thống nhất tổ quốc và chấn hưng Trung hoa”. Đây là 2 câu
quyết tâm được dựng lên trước năm 1997, khi Trung quốc cổ vũ đòi lại chủ
quyền ở nhượng địa Hồng kông.
Quảng
Châu đã mở toang cánh cửa từng khép kín, không phân biệt: mèo đen mèo
trắng”. Nơi đây là đầu mối giao thông trong cả 3 lãnh vực: đường thủy,
đường bộ và đường hàng không của miền Hoa nam. Rất nhiều tuyến quốc lộ,
liên tỉnh chia ra thành mạng mưới đường bộ về muôn ngả. Các tuyến đường
sắt Bắc nam và chạy trực tiếp đến các thành phố lớn trên toàn quốc. Giao
thông đường thủy trên sông đi thông suốt đến các bến cảng của các sông
Đông giang, Bắc giang, lấy Châu giang làm thủy lộ chính yếu. Giao thông
đường biển nối liền với 600 cảng lớn trên thế giới. Sân bay Bạch vân (đã
đề cập ở đầu bài) sẽ trở tành sân bay quốc tế lớn nhất trong số những
sân bay quốc tế của Trung Hoa. Quảng Châu còn có khu triển lãm hội chợ
hàng hóa xuất khẩu lớn nhất thế giới.
Từ
xa xưa, nền văn hoa Lĩnh nam để lại cho Quảng Châu nét độc đáo với
nhũng di tích lịch sử, văn vật cổ mang đậm bản sắc dân tộc như: chùa
Quang hiếu là ngôi chùa phật giáo được xây dựng vào thời Đông Tấn, chùa
Hoàn thánh và Tháp quang được xây dựng vào đời Đường là công trình theo
thể kiến trúc của đạo Hồi. Quảng Châu là thành phố có lịch sử đấu tranh
chống đế quốc và phong kiến còn được ghi như sau: nhà bia kỷ niệm nhân
dân chống đế quốc Anh ở Tam nguyên lý, Hoàng hoa cương nơi vinh danh 72
liệt sĩ, nhà kỷ niệm Tôn Văn, di tích trường Võ bị Hoàng phố v..v..
Riêng về phần mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái và Bảo tàng viện Nam Việt vương,
có liên hệ trực tiếp với Việt Nam sẽ được ghi nhận rõ ràng hơn. Quảng
Châu là nơi dung trú các nhà cách mạng Việt Nam
trong các phong trào Cần vương, Văn thân, Đông du còn lưu lại những cơ
sở dùng làm lớp học hay trụ sở. Cụ Phan Bội Châu có thời hoạt động ở
Quảng Châu dài nhất trong số những người yêu nước Việt Nam dừng chân lại thành phố này.
Nhà kỷ niệm Tôn Văn
Bác
sĩ Tôn Văn, hiệu Trung Sơn, người huyện Trung sơn, tỉnh Quảng đông, là
thủ lãnh cách mạng dân chủ Trung hoa mà quốc dân tôn vinh là đấng từ
phụ. Tôn chỉ vận động cách mạng cũa Tôn trung sơn là: khôi phục Trung
Hoa, diệt trừ Mãn thanh, lập dân quốc, bình quân địa quyền. Thị xã Quảng
Châu là mục tiêu thứ nhất trong chương trình hành động cách mạng nầy.
Sau cách mạng Tân hợi (1911), Tôn trung sơn nhận chức Đại Tổng Thống ở Nam kinh (tức Kim lăng, thuộc tỉnh Giang Tô) Từ 1911 đến 1949, Nam
kinh là thủ đô chính của Quốc dân đảng. Ông mất tại Bắc kinh năm 1925,
đến năm 1929 hài cốt được đưa về an táng tại núi Tử kim Đài kỷ niệm Tôn
Văn hình chóp nhọn cao vút trên đỉnh núi *giống như Washington Momument ở
thủ đô Mỹ quốc), có thể nhìn thấy từ nhiều ngõ đường trong Thành phố
Quảng Châu. Ở chân núi phía nam Việt tú sơn có nhà kỷ niệm Tôn Văn nằm
giữa khu vườn rất rộng, có nhiều hoa và cây xanh đẹp đẽ. Nhà kỷ niệm có 3
tầng theo dạng cổ lồng, nhiều mái cong mang nét cổ kính, vẻ hoành tráng
giống nhau ở ba phía ra vào. Riêng phía chính diện có bức đại hoành phi
“Thiên hạ vi công” và trước sân có pho tượng Tôn trung sơn đứng trên
đài, bên dưới ghi tạc tiểu sử và công trạng.
Hoàng hoa cương và bia mộ Phạm Hồng Thái
Hoàng
hoa cương là nghĩa trang danh dự ở chân núi Bạch vân, TP Quảng Châu,
nơi an giấc ngàn thu của 72 liệt sĩ Trung hoa đã anh dũng hy sinh trong
cuộc Cách mạng lật đổ triều đình mục nát Mãn thanh, giành chủ quyền
trong tay các đế quốc xâu xé Trung Hoa, đã xảy ra lúc 5 giờ chiều ngày
23-3 năm Tân hợi ( 27-4-1911).
Đứng
trước cổng Hoàng hoa cương hùng vĩ mà tú lệ bằng đá xanh màu thạch
ngọc, ai cũng nghiêng mình khâm phục. Bên trong là đài tưởng niệm uy
nghi với bia đá vĩ đại mang dòng chữ “Thất thập nhị liệt sĩ chi mộ” theo
chiều đứng và 4 chữ “Hạo khí trường tồn” chạy suốt những gian thờ phụng
ở tầng thấp.
Trên
chót cao của bức tường nơi hậu điện có tượng Nữ thần tự do đưa cao ngọn
đuốc thiêng, giống như tượng Nữ thần tự do ở cửa biển New York
(Hoa Kỳ). Khu vực Hoàng hoa cương rộng lớn, lối đi lát đá viền bồn hoa
tươi thắm, lẩn khuất dưới rừng cây xanh là nbững ngôi mộ có ghi tiểu sử
đứng cạnh pho tượng trầm mặc của một anh hùng đã hiến thân cho tổ quốc.
Trong
cảnh ngoạn mục và thanh tịnh của Hoang hoa cương, tôi đã gặp nhiều vị
cao niên tản bộ tập khí công và một nhóm nữ lưu đương tập thái cực quyền
trên sân của nhà nghỉ mát. Cái vinh hạnh đối với tôi là đã đến thăm
phần mộ Phạm Hồng Thái, người thanh niên ưu tú của Việt Nam đã an nghỉ
trong Hoàng hoa cương, người duy nhất được tôn vinh nơi đất khách đã
truyền lại cái hào khí lẫm liệt đến kẻ hậu sinh tha hương.
Phạm
Hồng Thái tên thật là Phạm Thành Tích, bí danh Nho Tư, chào đời năm
1896 tại làng Ngọc điền (Nghệ Tỉnh) đã hy sinh vì tổ quốc tại Châu
giang, TP Quảng Châu, lúc 30 tuổi.
Ông
theo chí hứơng của cha (là quan Huấn đạo Phạm Thành Mỹ, có chân trong
phong trào Cần vương kháng Pháp). Phạm Hồng Thái đã sớm hoạt động cách
mạng, theo bước Đông du trong Việt Nam
quang phục hội của chí sĩ Phan Bội Châu. Thực hành đường lối của Tâm
tâm xã,, cảnh tỉnh đồng bào dưới ách nô lệ của thực dân Pháp, Phạm Hồng
Thái theo dõi để ám sát Toàn quyền Martial Merlin từ Đông dương sang
Nhât để điều đình trục xuất những nhà cách mạng Việt Nam, đồng thời ký
một thương ước.
Phạm
Hồng Thái đã bám sát phái đoàn Merlin từ Hồng kông đến Thượng hải rồi
qua Hoành tân đất Nhật, nhưng chưa có cơ hội thuận tiện ra tay, Khi
Merlin và đoàn tùy tùng trên đường về Hà Nội, ghé lại Quảng Châu đêm
18-6-1924 để dự tiệc tại nhà hàng Victoria ở Sa điện, Phạm Hồng Thái giả
làm ký giả chụp hình lọt qua được hàng rào cảnh binh, vào trong khách
sạn ném một quả bom tay vào giữa bàn tiệc làm một số người Pháp và quan
khách chết ngay tại chỗ, riêng Toàn quyền Merlin chỉ bị thương nhẹ,
thoát chết. Phạm Hồng Thái phóng ra ngoài, chạy về phía Tây hào khẩu,
lính phòng vệ duổi theo rất ngặt lại gặp Châu giang chắn lối, ông liền
nhảy xuống sông tự vận, quyết không chịu sa vào tay giặc. Pháp trả thù,
vớt được xác Phạm Hồng Thái đem phơi bờ sông mấy ngày thì được một người
Trung hoa nghĩa khí xin đem mai táng.
Tháng
3 năm 1925, tỉnh trưởng Quảng đông là Hồ hán Dân cho cải táng hài cốt
Phạm Hồng Thái vào nghĩa trang danh dự Hòang hoa cương, trong lễ khánh
thành để tưởng niệm người liệt sĩ xả thân vì tổ quốc có rất đông đảng
viên Cách mạng Việt Nam qui tụ về và nhiều yếu nhân Trung hoa quốc dân
đảng tham dự.
Nơi
an nghỉ của vị anh hung Phạm Hồng Thái chiếm một diện tích khá rộng
trong Hoang hoa cương, như 72 liệt sĩ khác. Còn đó, qua thời gian 80 năm
qua vơi bao đổi thay lịch sử, vẫn là ngôi mộ vun cao viền cỏ xanh, ngay
cạnh là đài kỷ niệm mang mấy hàng chữ mạ vàng ngời sáng, bên trên là
chữ Quốc ngữ Việt Nam “Mộ Liệt sĩ Phạm Hồng Thái”, chữ Hán theo chiều
đứng của đài: “Việt Nam Phạm Hồng Thái liệt sĩ chi mộ”. Sau lễ đài lát
đá hoa cương, bên tả có bia đá cẩm thạch lớn bằng cánh cửa, ghi khắc chữ
Hán như sau:
Việt Nam liệt sĩ mộ ký.
Phiên ngung, Hồ Yểm soạn thư.
Quân lúy Hồng Thái, Việt Nam Bắc kỳ nhân dã. Tiên thế nghiệp nho, Pháp nhân vong Việt Nam.
Nhủng tập khoa cử chi, chế dĩ ngu dị nhân. Quân tu chỉ khử nhi tập công
học, ký quan nhập mổ xưởng vi công nhân, trường để pháp luật chi hà bạo
dữ pháp lại chi tứ tuy. Chiếp sinh phẩn khái, hội hưu chí giả tương dữ
tổ chức chính đảng vi cách mạng vận động, yêu quân nhập đảng, quân tùng
chi. Thời đảng nhân dân lưỡng phái. Nhất chủ vận động tam kỳ quân đội
phản chí nhi trục Pháp nhân. Nhất chủ ám sát hẵn tướng khốc lai dĩ trừ
dân hại. Quân ý dĩ vận động quân đội cố thuộc yếu đồ trạng cẩn vô tráng
liệt chi cử tắc bất túc hàn địch nhân chi đảm nhi kích lệ quốc dân, ccá
tả đản ám sát phái nhi mưu hữu dĩ thật hành yên. Pháp sứ Mã lan giả
tương đạo xuất Nhật bản nhi vi Hồ Vi chi du . Quân văn chi tiêu kỳ hiệp
thủ thương tạc đan đắc chi ư Đông kinh, Thượng hải gian dĩ trinh sứ
nghiêm mật vô kích khả thừa, toại Phiên trạng lai Việt vi tối hậu chi
cử, huynh tri Pháp nhân Mã lan vu Vực Đa lị lữ quán dã. Nại vị đồng chí
mỗ quân viết: Sự tành dữ bất đồ bất khả kỳ trạng ngô thệ bất nhập vu
Pháp nhân chi thủ, duy quân tu tương ngô đảng tông chỉ tuyên thị vu
ngoại dị miễn Pháp nhân hữu sở ngộ hội tri cầu tắc đọat thị. Quân toại
vu lục nguyệt thập cửu nhật, ngọ hậu bát thời vẵng phó vực đa lị lữ quán
bài chúng nhập vu vũ đạo thất, đạn thương đồng phát, nhất thời nam nữ
yểu tịch huyết đột mô hồ. Quân tiếu viết: Đại sự tất hỉ, ngô kỳ tử hồ.
Nãi phó thủy tử. Việt nhân nghĩa chi, thân kỳ thi táng, chư nhị vọng
cương chi nguyên mộ tây nam hướng cái dục sử quân chi linh do đắc quyến
cố kỳ cố quốc, vân thị vi ký.
Trung hoa dân quốc thập tứ niên nhất nguyệt cốc đánh lập.
Dịch nghĩa:
Văn bia mộ liệt sĩ Việt Nam họ Phạm.
Hồ Yểm soạn, viết tại thành Phiên ngung.
Anh hiệu Hồng Thái, người Bắc Việt Nam. Đời trước (cha ông) theo Nho học. Người Pháp chiếm Việt Nam,
vẫn duy trì khoa cử để chế ngự làm ngu dân. Anh hổ thẹn, bỏ học, theo
công nghệ làm công nhân trong cơ xưởng. Anh luôn nhìn thấy sư hà khắc
thô bạo của pháp luật và hà hiếp của quan lại người Pháp, sinh lòng phẩn
nộ. Nhân găp các người có chí khí đang tổ chức chính đảng để vận động
cách mạng, mời anh tham gia, anh liền theo. Lúc đó người trong đảng chia
làm 2 phái: Một nhóm chủ trương ám sát tướng hung bạo, quan tham tàn để
trừ hại cho dân. Anh có ý vận động quân đội trong nước để cử sự. Nhưng
nếu không khởi động bằng sự việc mãnh liệt thì không đủ làm cho kẻ thù
khiếp đảm và làm phấn chấn tinh thần quốc dân. Cho nên anh tán thàn h
phái ám sát và thi hành mưu địch.
Thống
sứ Toàn quyền Pháp là Mã lan giả (Merlin) sắp rời Nhật bản du hành sang
Thượng hải. Anh nghe tin, trước hết vì nghĩa hiệp, anh tự mang súng và
tạc đạn sang Đông kinh rồi Thượng hải. Vì sự canh phòng nghiêm mật không
có cách gì hành động. Mãi khi Toàn quyền đến Quảng Châu (Phiên ngung)
để trở lại Việt Nam, là cơ hội cuối cùng để cử sự. Được tin người Pháp sắp đãi tiệc Mã lan (merlin) ở khách sạn Vực đa lị (Victoria).
Anh nói với người đồng chí: “Sự việc tới lúc phải đạt thành công, không
thể trì hoãn. Tôi nguyện không để lọt vào tay người Pháp, xin anh tuyên
thị tôn chỉ của đảng ta ra ngoài để người Pháp khỏi hiểu sai lầm mà
xuống tay tàn sát bừa bãi.” Sau đó, vào ngày 19 tháng 6, lúc 8 giờ chiều
tối, anh đến khách sạn Vực đa lị (Victoria)
giả dạng vào được trong vũ trường, tung lựu đạn và bắn súng. Lúc đó
nhiều người nam nữ chết ngay, máu chảy cùng khắp. Anh cười nói: “ Việc
lớn đã thành tựu, ta chỉ còn cái chết mà thôi.” Sau đó anh đã trầm mình
tự vận. Người Quảng đông cảm nghĩa khí, đem thay đi chôn, sau cải táng ở
Hoàng hoa cương, hướng về Tây Nam, ý muốn cho linh hồn anh được nhìn về
cố quốc. Nay tôi ghi lại nơi đây.
Trung hoa dân quốc năm thứ 14, tháng giêng, ngày tốt dựng lập bia.
Lời người viết:
(1)
Trương Quang thành kính cảm tạ Giáo sư Hòa thượng Thích trí Hoằng đã
đọc lại bản chụp văn bia đính kèm, để bổ chính cho bản phiên âm và bản
dịch trên đây tránh lỗi lầm,
(2)
Một điểm sai khác giữa văn bia và tài liệu tôi tham khảo để viết về
ngày tháng Phạm Hồng Thái ra tay ám sát Merlin, xin chờ quí vị lưu tâm
chỉ giáo cho. Người đời thường ví anh hùng Phạm Hồng Thái ám sát quan đô
hộ Merlin như tráng sĩ Kinh kha hành thích bạo chúa Tần thủy Hoàng, tuy
công chưa thành nhưng danh lưu muôn thuở. Trong một tích tắc, Phạm Hồng
Thái đưa hai tay bái vọng vĩnh biệt tổ quốc Việt Nam rồi nhảy xuống
sông Châu giang, có khác Kinh kha vĩnh biệt nước Yên có Thái tử Đan và
triều thần bận tang phục tiễn đưa, rồi vượt sông Dịch thủy không hề
ngoái lại.
Một
buổi sáng áp Tết Quí mùi (2003) tôi và người bạn Hoa kiều-Chợ lớn, nhìn
dòng Châu giang lặng trôi trong sương khói, cùng mối đồng cảm nói trên,
bất giác tôi đọc cho ông bạn nghe bài ngũ ngôn tuyệt cú của Lạc Tân
vương (tôi xin đổi chữ Yên (Đan ra chữ Hương bang cho thích hợp đôi bên)
Thử địa bất tương bang,
Tráng sĩ phát xung quan.
Thích thì nhân dĩ một,
Kim nhật thủy do hàn.
Đất nầy từ biệt hương bang,
Tóc đầu dựng ngược, máu hờn nóng sôi.
Người xưa khuất bóng đi rồi,
Ngày nay còn thấy nước trôi lạnh lùng.
Trần Trọng Kim dịch
Bảo tàng viện Nam Việt vương tại Quảng Châu
Người
Việt nào đến thăm TP Quảng Châu cũng nhận biết sự gần gũi vể địa lý và
nhân văn ở nơi đây với quê hương mình, nếu muốn tìm hiểu sâu xa về mối
tương quan lịch sử thì bảo tàng viện Nam Việt vương là một minh chứng
không thể chối cãi được.
Nước
Nam Việt đóng đô tại Phiên ngung, là một nước độc lập với nhà Tây Hán ở
phương bắc vào thời trung cổ, được viết trong Trung quốc sử lược của
Phan Khoang và mấy dòng ngắn gọn trong Việt Nam sử lược của Trần Trọng
Kim: ”Năm quí mùi (207 trước Tây lịch) Triệu Đà đánh được An Dương vương
rồi sáp nhập nước Âu lạc vào quận Nam hải, tự xưng là Triệu vũ vương
(sau đổi là Nam Việt vương) lập thành nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên
ngung, gần thành Quảng Châu bây giờ.
Trong
khi nhà Triệu gây dựng cơ nghiệp ở Nam Việt, thì ở bên Tàu, ông Lưu
Bang trừ được nhà Tần, diệt được nhà Sở... Năm Canh ngọ (111 trước Tây
lịch) vua Vũ Đế nhà Hán sai Lộ bác Đức và Dương Bộc sang đánh nhà Triệu,
lấy nước Nam Việt, rồi cải là Giao chỉ bộ rồi chia làm 9 quận là:
Thương ngô, Uất lâm (nay là Quảng tây), Nam hải, Hợp phố (nay là Quảng
đông), Châu nhai, Đạm nhỉ (là đảo Hải nam), Giao chỉ, Cữu chân, Nhật nam
(là Bắc Việt và mấy tỉnh Bắc Trung Việt của Việt Nam bây giờ)
Rõ
ràng nước Nam Việt của người Bách Việt, có cương vực riêng, truyền được
5 đời vua Triệu mới bị nước Tàu thôn tính. Bởi lẽ đó, tiền nhân của
nước Việt Nam đã đòi lại chủ quyền lãnh thổ quốc gia, ít nhất 2 lần trong lịch sử:
•
Năm Ất mão (1075) Lý Thường Kiệt sang vây đánh Hâm Châu và Liêm Châu
(thuộc tỉnh Quảng đông). Đạo quân của Tôn Đản sang đánh Ung Châu (tức
thành Nam
nin h thược tỉnh Quảng tây). Năm 1076 quân ta phải rút về để đánh tan
quân nhà Tống (có Chiêm thành và Chân lạp phối hợp) sang đánh nước ta.
• Năm Nhâm tý (1792) vua Quang Trung sai sứ sang Tàu, xin cầu hôn và xin trả lại cho Việt Nam
đất Lưỡng quảng. Vua Càn long trong thế yếu phải buộc lòng xin gã công
chúa út cho vua Quang Trung và tặng tỉnh Quảng tây làm lễ cưới. Yêu sách
trên là để thử, không ngờ trong năm ấy (1792) vua Quang Trung băng hà,
việc đòi đất bỏ qua. Lịch sử đã đi qua 22 thế kỷ, nay Trung Quốc ở thế
mạnh, họ không ngần ngại gì mà chẳng phơi bày sự thật nơi ngôi mộ Nam
Việt vương ngay tại cố Phiên ngung, thành một bảo tàng viện để họ chứng
minh là đất nước có nền văn minh lâu đời. Bảo tàng viện Nam Việt vương
hiện tọa lạc trên diện tích rất rộng ở số 867 Jie Fanbei Road, TP Quảng
Châu, chỉ cách bảo tàng viện Quảng Châu và công viên Việt tú một vài dậm
đường. Trong quyển kỷ yếu có lời giới thiệu: “Lăng tẩm của Nam Việt
vương được phát hiện năm 1983, là ngôi vương mộ lớn nhất thời Tây Hán
chưa từng được biết đến ở miền Hoa nam. Có cả thẩy hơn một ngàn di vật
được khai quật từ lăng mộ này, phản ảnh nhiều khía cạnh đủ các mặt chính
trị, kinh tế và văn hóa của phương Nam Việt. Chính nơi đây là điểm nổi
bật nhất trong hàng trăm đề mục khám phá khảo cổ học quan trọng ở Trung
quốc trong thế kỷ 20, bởi vì ở mộ Nam Việt vương giúp cho hiểu biết được
bí quyết, như chiếc chìa khóa, về cách bảo quản di hài được áp dụng
trên toàn quốc lúc đương thời.
Bảo
tàng viện lăng mộ Nam Việt vương (đồng thời với nhà Tây Hán) được khai
trương năm 1988 chủ yếu nhằm phô bày vị trí chính của nhà mồ vua Nam
Việt và những di vật rất khéo léo do bàn tay con người thời xưa tạo ra
nên được đào lên tại đây”
Khu
mộ Nam Việt vương đã được khai mở, nay được lập bằng nhà kính. Các tòa
nhà và bãi đậu xe vây quanh 3 mặt lăng mộ, có 6 đại sảnh để trưng bày vô
số di vật lấy lên từ ngôi mộ, được đặt trong lòng kính. Một đại sảnh
trình chiếu video về quá khứ khai quật, về hình dung sinh hoạt cổ thơ
một đại hội trường. Tôi may mắn được hướng dẫn viên của viện nói rành
Anh ngữ đưa xuống hầm mộ nằm sâu trong lòng đất, qua các hành lang chìm,
bước qua những cánh cổng nặng hàng chục tấn có chốt khóa bí hiểm, tất
cả bằng đá tảng mặt phẳng, không lậu một giọt nước. Phòng nhà vua an
giấc ngàn thu vẫn còn lại hàng quan tài thật lớn bằng đá quí, có lẽ dành
cho cả hoàng hậu, vương phi. Lăng mộ như cung điện chứa bảo vật dưới
lòng đất. Còn vô số di vật trưng bày trong tủ kính, từ triện vua bằng
vàng đến các đồ trang sức thời cổ, các loại đồng tiền, các đồ dùng bằng
đồng hay đất nung, các gối đầu hay ghế ngồi bằng sành sứ v..v.. Nhìn các
loại binh khí thời xưa, tôi nhận biết rất nhiều mũi tên đồng, đầu mũi
có ngạnh và một vài dụng cụ không rõ hình dạng nữa. Đây chắc chắn là
những mũi tên đồng dùng nỏ ở Liên Châu làm theo đồ hình của Cao Lỗ bắn
bằng máy đẩy mỗi lần 10 mũi, mà Triệu Đà học được nơi thành Cổ Loa.
Huyền thoại thường nói đến Thần Rùa vàng giúp cho vua An Dương vương
dựng được thành Cổ loa, và cho nhà vua móng chân để làm lẫy nỏ, phá tan
được quân xâm lược. Sự thật thành Cổ Loa có 9 lớp xoáy trôn ốc, có 18 gò
cao nhô ra chân lũy bố trí nỏ liên châu bắn xuống, khiến quân của Triều
Đà vây thành khiếp đảm, tháo chạy. Thấy dùng binh thất bại, Triệu Đà
dùng kế cho con là Trọng Thủy sang cưới Mị Châu là con gái Thục An Dương
vương. Sống trong thành Cổ loa, Trọng Thỉ biết hết được sơ đồ phòng vệ
thành, học được bí quyết làm nỏ liên châu, làm sai bậy một cơ phận trong
lẫy nỏ ở Cổ loa thành.
Trọng
Thủy về, giúp cho Triệu Đà nỏ liên châu và tin tức tình báo. Triệu Đà
bèn khởi binh sang đánh Âu lạc. Thục An Dương vương cậy có “nỏ thần”,
khi giặc đến chân thành thì nỏ thần đã vô dụng. Triệu Đà lấy được nước
Âu lạc, đem sáp nhập vào quận Nam hải đổi tên nước là Nam Việt, đóng đô ở
Phiên ngung, là TP Quảng Châu ngày nay. Bảo tàng viện lăng mộ Nam Việt
vương nhà Triệu ngay giữa lòng thành phố Quảng Châu là bằng chứng hiển
nhiên về văn hóa Việt từng phát triển rực rỡ tại nơi nầy và lãnh thổ của
tổ tiên người Việt bao gồm cả tỉnhh Quảng đông, Quảng tây của Trung
Quốc.
Từ
ngàn xưa, cố đô Phiên ngung là cái nôi văn hóa của nước Nam Việt, lại ở
vào địa lý thiên nhiên thuận lợi, đó là 2 điều cần thiết để thành phố
Quảng Châu tiến lên nền công kỹ nghệ và giao thương tiên tiến như ngày
nay.
TRƯƠNG QUANG
Connecticut, tháng 4 năm 2003
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét