Sự xác định phát minh ra la bàn thuộc về văn minh Việt cổ.
Website Lý học Đông Phương
Hướng dẫn: Thiên Sứ
Biên soan: Achau
Bổ sung: Thiên Đồng
Trong
hội thảo "Tính khoa học của Phong thủy", do Trung Tâm nghiên cứu Lý học
Đông phương tổ chức tại Hanoi, ở khách sạn La Thành ngày 15 - 12 -
2009, Hoàng Triều Hải là một thành viên nghiên cứu và hiện là trưởng đại
diện Văn Phòng Hanoi của Trung tâm đã giới thiệu "Ông Khiết" - một vật
trấn yểm độc đáo của Phong Thủy Lạc Việt. Ông Khiết chính là một món quà
tặng của Trung Tâm cho các vị khách quí tham dự hội thảo.
Đây cũng chính là một biểu tượng đầy tính minh triết của nền văn Lạc Việt, một thời huyền vĩ ở miến nam sông Dương tử....
Ông Khiết - quà tặng của Trung tâm trong hội thảo.
Ảnh: TTNCLHĐP
Tính minh triết Việt qua biểu tượng Ông Khiết
Có
lẽ, hầu hết người Việt Nam khi bước vào đời, trước nhưng khó khăn của
cuộc sống đầy bon chen, sát phạt, thì thường tự an ủi với câu thành ngữ
rất phổ biến: "Ngậm miệng ăn tiền". Hoặc trước những bất công xã hội,
những sự ức chế thì ông cha ta cũng thường nói: "Cóc cũng phải mở
miệng". Hay trong đời thường, trước những khó khăn không thể vượt qua,
người ta thường thách đố nhau: "Đợi đến cóc mọc râu" mới làm được việc
đó. Đã từ lâu, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, đã phát hiện mối liên
hệ chặt chẽ giữa những câu thành ngữ lưu truyền trong dân gian Việt Nam,
những giá trị văn hóa phi vật thể của nền văn hiến Việt liên hệ đến
hình tượng "Ông Khiết", qua những tác phẩm của ông: "Tính minh triết
trong tranh dân gian Việt Nam", "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và
huyền thoại", "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch", "Thời Hùng Vương và bí ẩn
Lục thập hoa giáp"; "Hà Đồ trong văn minh Lạc Việt"…nhằm phục hồi hệ
thống lý thuyết Âm Dương Ngũ Hành thuộc về nền văn hiến Việt 5000 năm
huyền vĩ phía Nam Dương Tử. Có thể nói rằng: Trong suốt lịch sử trải gần
5000 năm đó, hình tượng "Ông Khiết" - cụ Cóc - luôn gắn bó với nền văn
hóa truyền thống Việt. Chúng ta có thể nhận thấy ngày hình ảnh "Ông
khiết" Việt trong nền văn hiến Việt qua những di sản khảo cổ từ hàng
ngàn năm trước:
Đây là những di vật khảo cổ của người Việt, đã
làm thế giới phải ngạc nhiên và thú vị trước một nền văn minh và kỹ
thuật phát triển thể hiện một đỉnh cao không những trong kỹ thuật đúc
đồng mà ngay cả trong nghệ thuật khắc nổi và hình họa. Những chi tiết
trên trống đồng phản ánh một hình thái xã hội với chiều sâu của nó, xác
định một nền văn minh Văn Lang rực rỡ của Việt tộc. Một trong những chi
tiết độc đáo, được đắp nổi trên tang trống Lạc Việt từ hàng ngàn năm
trước là những những con vật bình dị, nhưng rất thân thuộc trong xã hội
văn minh lúa nước, đó là hình ảnh con Cóc.
Trống đồng Lạng Sơn, loại Heger II,
trưng bày tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Việt Nam.
Trống đồng Đông Sơn và hình tượng cóc - Ông Khiết.
Tượng cóc trên trống đồng Đông Sơn
Tượng cóc trên mặt trống Heger II
Đã có nhiều học giả có những cách lý giải khác nhau về con Cóc trong
các nghiên cứu khoa học. Có thuyết cho rằng Cóc là biểu hiện cho tình
trạng thời tiết trong mùa màng, như “Cóc nghiến răng thì trời sẽ mưa”. Những
hình ảnh Cóc trên trống đồng xuất hiện rất thường xuyên trong các di
vật khảo cổ và người ta càng khó hiểu khi có những hình tượng Cóc giao
hoan, không những giữa hai cá thể mà những ba cá thể (!). Nhiều học giả
có ý kiến cho đó là biểu trưng cho tính ngưỡng phồn thực cổ xưa của văn
hóa Việt!?
Tượng 3 cóc giao phối.
Không chỉ ở nhưng di vật khảo cổ xác định hình tượng Ông Khiết đã tồn
tại từ lâu trong nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử, mà hình
tượng này còn tồn tại trong văn hóa truyền thống dân gian Việt Nam cho
đến tận bây giờ. Những chuyện liên quan đến Cóc là nhân vật chính có thể
kể ra đây là: Chuyện Trê Cóc, Cóc kiện trời, Thày đồ Cóc...Trong văn
học dân gian Việt thì có thể nói ông Cóc có một vị trí đặc biệt được tôn
trong:
Con cóc là cậu ông trời.
Ai mà đánh nó thì trời đánh cho
Ông Trời - Thượng Đế - cai quản cả vũ trụ mà nhân loại phải kính trọng,
nhưng cóc lại còn là "Câu ông Trời" thì đủ hiểu cóc có địa vị như thế
nào! Không những thế, cóc còn là thầy dậy, là sự truyền đạt văn hóa và
chỉ mình Cóc làm được chuyện này.
Lão Oa độc giảng - Thày Đồ Cóc - Tranh dân gian làng Đông Hồ.
Ông Trời chính là biểu tượng của sức mạnh vũ trụ, cóc là Cậu ông Trời
và là độc quyền giảng dậy, truyền đạt văn hóa! Phải chăng con cóc là
hình tượng muốn gợi mở một suy nghiệm liên quan đến những bí ẩn vũ trụ
được ẩn chưa trong nền văn minh Khoa Đểu - đó là loại chữ hình con nòng
nọc - con của cóc.
Trong ca dao tục ngữ Việt, còn những câu thành
ngữ liên quan đến ông Cóc và đặc biết là Ông Khiết - một biểu tượng cách
điệu của con Cóc - một cách kỳ lạ, mà chúng tôi lần lượt trình bày với
bạn đọc dưới đây:
"Ngậm miệng ăn tiền".
Một
câu thành ngữ độc đáo của nền văn hóa dân gian Việt. Các nhà nghiên
cứu, phê bình cho rằng câu thành ngữ này có một nội dung ích kỷ, thiếu
tính đấu tranh, chỉ biết lợi cho mình....Nhưng kỳ lạ thay! Đây chính là
biểu tượng của Ông Khiết:
Hình tượng Ông Khiết - "Ngậm miệng ăn tiền".
Thế
gian này chẳng ai có thể ngậm miệng ăn tiền cả. Câu thành Ngữ Việt
"Ngậm miệng ăn tiền" chỉ mang tính hình tượng, nhằm miêu tả một nội dung
khác. Nhưng với hình tượng "Ông Khiết" thì đúng cả đến nghĩa đen. Các
thày bà còn khuyên thân chủ mua Ông Khiết về để thờ và cứ phải" sáng
quay ra, tối quay vào" để ông mang tiền về cho gia chủ. Hàng ngàn năm đã
trôi qua - kể từ khi nền văn minh Khoa Đẩu của Việt tộc sụp đổ ở miến
nam sông Dương Tử, hình tượng Ông Khiết "ngậm miệng ăn tiền" vì có khả
năng "mang tiền về cho thân chủ" - nên mãi mãi lưu truyền đến ngày nay -
phải chăng đã hàm chứa sự gìn giữ những bí ẩn của nền văn minh Khoa
Đẩu? Hình tượng Ông Khiết nguyên thủy thì đồng tiền trong miệng có thể tháo rời ra được. Nhưng ngày nay, để tiện vận chuyển và
sản xuất, người ta đã hàn dính đồng tiền vào miệng Ông Khiết, hoặc đúc
dính liền đồng tiền và mình Ông Khiết thành một khối. Tuy nhiên, vẫn còn
có những nơi làm hình tượng này theo đúng truyền thống - họ không đúc
liền đồng tiền vào miệng Ông Khiết. Và điều này lại liên quan một cách
kỳ lạ đến câu thành ngữ "Cóc mở miệng".
"Cóc mở miệng"
Câu thành ngữ lưu truyền trong dân gian Việt Nam này có nội dung nói
đến những chuyện hy hữu, bất khả kháng. Cả đời, hiếm khi ai nghe được
tiếng cóc. Có đánh chết, cóc cũng im, không một tiếng kêu. Các cụ gọi là
"gan cóc Tía". Nhưng với hình tượng Ông Khiết, nếu rút đồng tiền ra
khỏi miệng cóc thì ta thấy ngay "Cóc mở miệng".
Ngậm miệng ăn tiền...và.....
Cóc mở miệng!
Chính
vì mối liên hệ chặt chẽ giữa hình tượng của Ông Khiết và những câu
thành ngữ trong văn hóa dân gian Việt, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh
đã tiến hành dùng con lắc cảm xạ kiểm tra và phát hiện ở miệng Ông
Khiết, khi bỏ đồng tiền ra, có một hiệu ứng bức xạ rất mạnh. Hiện tượng
này được nhà cảm xạ Dư Quang Châu - Trưởng ban cảm xạ Trung Tâm nghiên
cứu tiềm năng con người - dùng máy đo xác định:
Ở các bộ phận khác nhau trên mình Ông Khiết, đèn báo không sáng toàn phần....
Trung bình có bẩy đơn vị đèn sáng.....
Chỗ ít nhất chỉ có ba đơn vị đèn sáng......
Nhưng tại miệng Ông Khiết, đèn sang toàn phần, đã chứng tỏ có một bức xạ rất mạnh ở đây.
Một hiện tượng cần lưu ý là: Nếu ta để đồng tiền trở lại vào miệng Ông
Khiết thì hiện tượng bức xạ yếu hẳn. Hiện tượng "Cóc mở miệng" nói lên
điều gì? Phải chăng những điều gần như không tưởng trở thành có thể?
Trong thành ngữ dân gian Việt Nam có câu "Bao giờ cóc mọc râu". Một câu
thành ngữ có tính ví von với hình tượng so sánh với những việc gần như
không tưởng. Cóc thì chẳng bao giờ mọc râu cả, vậy thì những việc làm sẽ
chẳng bao giờ thành công ví như chờ đến khi "cóc mọc râu" vậy. Nhưng kỳ
lạ thay! Một lần nữa câu thành ngữ dân gian Việt này lại liên hệ rất cụ
thể với hình tượng Ông Khiết:
Bạn đọc hãy nhìn kỹ xem: Ở hai bên mép Ông Khiết có hai sơi râu thật..... "
Cóc mọc râu" đúng
cả nghĩa đen với hình tượng Ông Khiết. Phải chăng, chính hình tượng Ông
Khiết muốn nhắc nhở hậu thế rằng: Những điều không tưởng vẫn có khả
năng trở thành hiện thực?!
Trong bài "Hòn Vọng Phu" của nhạc sĩ Lê Thương có câu:
Ta cố đợi ngàn năm. Một ngàn năm nữa sẽ qua....
Nhạc sĩ Lê Thương sáng tác bài hát nổi tiếng này của ông, khi mà tất cả
các nhà nghiên cứu văn hóa sử Việt còn sống ngày nay chưa sinh ra ở
trên đời.....
Hơn hai ngàn năm đã trôi qua, kể từ khi nền văn hiến
huyền vĩ Việt sụp đổ ở miến nam sông Dương Tử, ông Khiết đã "Ngậm miệng
ăn tiền". Đến nay, Ông Khiết đã mở miệng và thể hiện những điều mà trước
đây gần như không tưởng - "Cóc mọc râu".
Qua hình tượng Ông Khiết,
đã xác định một nền văn hiến huyền vĩ ở bờ nam sông Dương Tử - nền văn
minh Khoa Đẩu - đã sở hữu một lý thuyết thống nhất vũ trụ mà nhân loại
đang mơ ước. Đó chính là thuyết Âm Dương Ngũ hành.
Ông Khiết và thuyết Âm Dương Ngũ hành.
Ngay trên đầu ông Khiết, đã đội Âm Dương, cho
chúng ta thấy hình tượng Ông Khiết có mối liên hệ chặt chẽ với thuyết
Âm Dương Ngũ hành. Do đó hình tượng này phải là một sự lựa chọn liên
quan mật thiết đến học thuyết này. Nếu chúng ta có thể cách điệu hóa
hình tượng ông Khiết ba chân đầy huyền bí này thành hình kỷ hà thì sẽ có
hình tam giác cho thân ông Khiết với đỉnh ở miệng Ông Khiết và một hình
tam giác khác có đỉnh là chân sau ông Khiết. Và đây chính là biểu tượng
của Do Thái giáo - một tôn giáo cổ xưa nhất của nhân loại và nay chính
là lá cờ của quốc gia Isarael. Đồng thời đây cũng chính là biểu tượng
của đồ hình Hậu Thiên Lạc Việt với sự kết hợp hai quái Đoài Tốn và Cấn
Chấn thành đồ hình tam âm, tam Dương. Xin xem hình minh họa dưới đây:
Không ai có thể phủ nhận sự liên quan giữa bát quái với Ngũ hành trong
ứng dụng. Biểu tượng của ông Khiết liên quan đến Thuyết Âm Dương Ngũ
hành là việc rất rõ ràng không cần phải bàn cãi, ít nhất với xoáy Âm
Dương mà Ông Khiết mang trên đầu. Nhưng vấn đề cũng chưa dừng lại ở đấy,
mà biểu tượng này còn liên quan mật thiết với những tri thức vũ trụ và
xác định:
Thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là sự tổng hợp của những
tri thức vũ trụ, khi mà trên lưng Ông Khiết chính là hình tượng của chòm
sao Đại Hùng Tinh - Chòm sao Thiên cực Bắc của bầu trời Thái Ất trong
lý học Đông phương.
Bạn đọc có thể so sánh hình dưới đây:
Chòm sao Đại Hùng tinh trên bầu trời Thái Ất hiện nay
(Chấm đen trên hình minh họa).
So sánh với các chấm trên lưng ông Khiết......
Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận ra rằng: Ông Khiết chính là biểu tượng
hoàn hảo của nền văn minh Khoa Đẩu (Con ông Khiết chính là nòng nọc -
Khoa Đẩu tự - văn tự chính thống của nền văn minh Lạc Việt), miêu tả một
cách cô đọng nhất những nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành
và một thực tại mà học thuyết này phản ánh: Đó chính là những quy luật
vũ trụ tương tác với Địa cầu, mà chòm sao Thiên Cực Bắc chính là chòm
sao định vị căn bản cho mọi sự vận động, tương tác đó.
Nhưng vấn đề
cũng không chỉ dừng lại ở đây, hình tượng Ông Khiết còn xác định rằng:
La bàn chính là sản phẩm có từ lâu trong nền văn minh cổ nhân loại và
không phải do người Trung Quốc phát minh.
Biểu tượng Ông Khiết - Xác định la bàn là phát minh của người Việt cổ.
Từ hàng ngàn năm nay, cả thế giới này vẫn ngộ nhận la bàn là phát minh
của nền văn minh Hoa Hạ, cũng như cho rằng Kinh Dịch và thuyết Âm Dương
Ngũ hành của người Trung Hoa vậy. Có thể nói rằng trên hầu hết những
website nghiên cứu đều thống nhất nói về điều này.
Nhà nghiên cứu Trần Trọng Kim chép trong Việt Nam Sử Lược "... và ông Chu Công Ðán lại chế ra xe chỉ Nam để đem:
"... và ông Chu Công Ðán lại chế ra xe chỉ Nam để đem xứ Việt thường về nước." (quyển 1, trang 13).
Còn
theo sự khảo cứu của Châu Âu cho rằng la bàn từ dùng kim nam châm được
các nhà hàng hải Trung Hoa dùng khoảng năm 1100 Tây lịch. Theo học giả
Alexander Neckam viết trong sách Desutensilibus (Nói về các dụng cụ) thì
các thủy thủ Anh,vào năm 1190, đã từng dùng la bàn cho những chuyến hải
hành trên cách đại dương. Khoảng từ năm 1220 người Arập đã bắt đầu dùng
la bàn và khoảng 1250 thì người Viking cũng đã biết dùng loại công cụ
định hướng này một cách thường thức.
Họ còn trưng ra nhưng cái gọi là "di vật khảo cổ" để xác định la bàn là phát minh của người Hoa Hạ:
Chiếc thìa chỉ Nam - một di vật được coi là phát minh của người Hoa Hạ vào thế kỷ II BC.
Thế giới theo thói quen nhận thức đó, mặc nhiên ngộ nhận sự phát minh
La Bàn là của người Trung Quốc. Nhưng một bí ẩn còn chưa được giải
thích, một câu hỏi còn đang bỏ lững, khi đặt cho câu hỏi rằng những công
trình kim tự tháp của Ai Cập, Hy Lạp, Inca, Maya, Zoque ở Trung Mỹ,
được xác định phương hướng để xây dựng hay các cấu trúc công năng của
tháp cũng thể hiện khả năng, công dụng xác định được phương hướng, xác
định được sao Cực Bắc, các hướng chính Bắc, chính Nam, chính Đông, chính
Tây - với độ sai biệt siêu việt hơn độ sai biệt lý tưởng cho phép của
xây dựng thời hiện đại - thì thời đó các nền văn minh hơn 5000 năm này
họ xác định hướng bằng gì? Nếu cho rằng: Các nền văn minh cổ xưa đã dùng
sao Thiên Cực Bắc để tìm hướng Bắc, thì chúng ta đều biết rằng: Hướng
Bắc của chòm sao Thiên cực Bắc không hoàn toàn trùng khớp với phương Bắc
của Địa cầu. Sự chính xác của các công trình kiến trúc nổi tiếng thời
cổ đại, như Kim Tự Tháp Kim tự tháp Keop nổi tiếng của Ai Cập có đường
chéo góc trùng khớp hoàn toàn với kinh tuyến Bắc Nam của địa cầu và là
kinh tuyến đi qua đất liền dài nhất thế giới. Làm thế nào để họ xác định
chính xác trục Bắc Nam mà xây nên Kim Tự tháp vĩ đại này? Cũng có ý
kiến cho rằng: Người Ai Cập căn cứ vào sao Bắc Đẩu để xác định phương
Bắc. Mới nghe thì có vẻ có lý và có nhiều ngươi đồng tình. Nhưng vấn đề
đặt ra ở đây là trục Địa cầu nối kinh tuyến dài nhất theo hướng Bắc Nam,
chứ không phải phương Bắc. Làm sao người Ai Cập biết trục Địa Cầu nằm
đúng phương Bắc Nam mà nhìn sao Bắc Đẩu, nếu không có la bàn - hoặc một
cái gì đó tương tự như vậy - để xác định phương hướng các vì sao trên
bầu trời với một kiến thức thiên văn vượt trội . Điều này đã chứng tỏ
qua vị trí các vì sao tương quan với các Kim Tự Tháp.
Chúng ta xem lại hai tư liệu liên quan đến sự phát minh ra la bàn vốn được coi là của người Trung Hoa.
1 - Truyền thuyết ghi nhận trong trận đánh Hoàng Đế Xuy Vưu tại Trác
Lộc (Trên 5000 năm cách ngày nay). Xuy Vưu làm phép khiến trời đất mù
mịt. Một vị đại thần của Hoàng Đế phát minh ra cái xe chỉ nam và nhờ cái
xe này, Hoàng Đế chỉ huy quân đội, phá tan đạo quân của Xuy Vưu.
2- Sứ giả Việt Thường đến kinh đô cống vua Nghiêu một con rùa lớn (3000
năm cách ngày nay), trên mai rủa có ghi việc trời đất mở mang bằng Khoa
Đẩu tự. Vua Nghiêu sai tặng sứ Việt thường chiếc La bàn để định hướng
về nước.Sau hai tư liệu trên thi không có một tác giả Trung Hoa nào tự
giới thiệu là người phát minh ra la bàn.
Chúng ta cũng biết rằng:
Chính các nhà sử học Trung Quốc cũng cho rằng lịch sử văn minh Hoa Hạ
chỉ rõ ràng trong khoảng thế kỷ thứ VIII BC. Huyền thoại thì không phải
là cơ sở để tin cậy như một chứng cứ thuyết phục, nếu không giải thích
được những vấn đề liên quan đến nó. Khoa phong thủy đã được chứng minh
rằng: Nó thuộc về nên văn hiến Lạc Việt một thời huy hoàng bên bờ nam
Dương Tử. Tất yếu cái la bàn là vật bất ly thân của môn này không thể
ra đời trong văn minh Hán.Quí vị cũng cần quán xét một hiện tượng là: Ở
đây, tôi cũng cần lưu ý thêm quý vị là: Sử Ký Tư Mã Thiên dành hẳn một
truyện cho những thày chuyên coi ngày, tựa là "Nhật giả liệt truyện",
nhưng lại không hể nhắc tới khoa Phong Thủy vốn được coi là xuất hiện từ
thế kỷ thứ III BC - tức là trước cả Tư Mã Thiên hàng 100 năm - như tài
liệu trên ghi nhận. Ông ta cũng không hề có một chữ nào nói đến sự ứng
dụng khoa Phong thủy trong các công trình xây cất của triều đình Hán.
Tất nhiên, ông cũng không hề xác nhận la bàn là do phát minh của văn
minh Hoa Hạ. Những chứng cứ trên xác định việc phát minh la bàn không
thuộc về văn minh Hán cổ.
Cóc với đôn cố định.
Hình tượng Cóc thật sự là bình dị và phổ thông như đã thấy, nhưng kết
cấu lại đưa đến những sự trùng hợp mang tính tương đồng hay định hướng
cho một sự suy nghiệm hợp lý giữa các hiện tượng liên quan.
1 -
Ông Khiết được đặt trên đôn tròn có thể xoay các hướng tương làm cho
miệng nhọn của hình tượng như một mũi tên chỉa về các phương tương tự
mũi kim nam châm luôn xoay tít và chỉ hướng Bắc Nam khi đã ổn định. Do
vậy, đôn đế thường được thiết kế tròn và bằng vật liệu không phải là kim
loại, tương đồng với việc thiết kế vỏ la bàn bằng vật liệu không tạo sự
nhiễm từ.
2 - Miệng Ông Khiết ngậm một đồng tiền tròn - theo
quan điểm Lý học Đông Phương thì tượng tròn thuộc kim - Hình tượng này
cho thấy tính hút kim loại - tiêu biểu là sắt - của La bàn. Những hình
ảnh tiền bạc mà tượng cóc ngồi lên, cũng có thể tượng trưng cho tượng
Kim, kim loại bị từ trường hút giữ. Như vậy tính từ lực được thể hiện
qua hình tượng ẩn dụ mang tính thường thức phổ thông qua ý nghĩa cầu tài
chiêu lộc. Nhưng đó là ẩn ngữ nhằm miêu tả một tri thức bị che lấp bởi
hàng ngàn năm Hán hóa.
Cấu trúc của miệng Ông Khiết hơi nghiêng
chếch lên, nên khi ta chỉ cần cho đồng tiền vào đúng miệng là tự nó vào
sâu tiếp trong miệng Ông Khiết, nói lên khi cho kim loại tới gần nam
châm sẽ hút được nó.
3 - Lưng ông Khiết mang chòm sao Bắc Đẩu và nhìn lên trời, cho thấy ông nhìn về hướng Bắc.....
4
- Chân ông Khiết có nhiều đồng tiền nhỏ xung quanh, hình tượng thuộc
kim một lần nữa được tái hiện, cho ta thấy nam châm có thể hút được kim
loại từ rất nhiều chiều. Trong khi đế lại được chế tác hình tròn và bằng
loại vật liệu khác và tách rời với ông khiết, muốn nói rằng, vỏ của la
bàn phải được làm bằng loại vật liệu khác mang dáng dấp của hình tròn và
không phải là kim loại, không phải là nam châm thì la bàn mới hoạt động
được.
5 - Qua tác nghiệp đo xung khí bằng máy RFI của Nhà cảm
xạ học Dư Quang Châu, cũng như sử dụng đo xung xạ bằng con lắc của nhà
nghiên cứu lý học Nguyễn Vũ Tuấn Anh cho thấy rằng: Khi Ông Khiết ngậm
đồng tiền, không tạo xung khí, trời đất giao thoa, nói lên trái đất vẫn
chịu sự tưong tác của thiên văn.
Khi rút đồng tiền ra, miệng Ông Khiết tạo ra một xung khí phát thẳng, có thể coi là chỉ dấu chiều từ trường trái đất
Đương nhiên ông cha ta không muốn bị thất truyền, nên ngoài việc mang
tính chiêu tài để lưu truyền, ông cha ta thêm chùm sao Đại Hùng tinh
trong tranh dân gian Việt in hình của chòm sao trên lưng trong tượng ông
Khiết.
Trong buổi hội thảo về "Tính khoa học của phong thuỷ
trong kiến trúc và xây dựng", nhà tổ chức đã trao tặng các đại biểu
tượng Ông Khiết trên đế tròn. Đây cũng là biểu tượng và mong muốn phổ
biến một hình tượng minh triết Việt đến với mọi người.
Chúng tôi
luôn tuân thủ nguyên tắc: Không sử dụng sử giải mã những biểu tượng,
truyền thuyết làm bằng chứng khoa học để minh chứng cho Việt sử 5000 năm
vắn hiến. Nhưng, chúng tôi vẫn trân trọng giới thiệu một cách nhìn về
tính minh triết Việt qua di sản của tổ tiên Lạc Việt để lại.
Ẩn truyền của ông cha ta khi nói: “Con cóc là cậu ông Trời” thật là ý
nghĩa. Và một điều thú vị khác nữa là: Trong cuốn "Cội nguồn trăm họ"
của giáo sư Bùi Văn Nguyên, tác giả cho rằng - Kinh Dương Vương tên húy
là Nguyễn Minh Khiết. Như vậy, danh từ "Khiết" chính là thủy tổ khai
sáng nền văn minh Lạc Việt - Nền văn minh Khao Đẩu một thời huyền vĩ ở
miến nam sông Dương tử..
Achau
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét