(Trích Đặc San Đền Hùng - Xuân Kỷ Tỵ 1989 - San Jose)
Với
các tài liệu Cổ Nhân học, Nhân Chủng học và Khảo Cổ học được phát hiện
trong hai thập niên qua, thêm vào những nghiên cứu của các ngành khoa
học khác từ Dân Tộc học, Ngôn Ngữ học cho đến các ngành Kim Loại học,
Địa Chất học ... ngày nay người ta đã có thể mang thời đại Hùng Vương
vào chính sử. Thành ra phạm vi của bài viết này chỉ hết sức khiêm nhượng
như là một chú thích nhỏ của một luận văn lịch sử về thời dựng nước đầu
tiên của Việt tộc.
Bài
viết cũng không có những phát kiến nào mới lạ hơn là bổ xung và tổng
kết những đề nghị, luận cứ của các học giả đi trước. Tuy nhiên nó cũng
có một hy vọng là để chấm dứt những bài "sưu khảo" chỉ lập lại những ý
kiến của Maspero, Lê Dư, Lê Chí Thiệp ... cách đây hơn nửa thế kỷ, hoặc
tệ hơn nữa là các bài viết ca tụng mơ hồ cái gọi là "chim lạc".
Từ Ngữ Hán Việt: Hầm Bẫy Các Học Giả
Một
thời báo chí Sài Gòn đã chế diễu một ngài tổng bộ trưởng của Việt Nam
Cộng Hòa khi ông ta nhầm Nhật Nhĩ Man (chữ Hán cũ phiên âm để chỉ nước
Đức: Germany, German) là nước Nhật (Japan). Nhưng nhiều người không biết là chính "trò chơi" tương tự đã là hầm bẫy biết bao học giả Việt Nam và ngoại quốc trong vấn đề nghiên cứu lịch sử, văn hóa Việt Nam.
Bởi vì lý do duy nhất là tất cả tài liệu lịch sử của chúng ta đều viết
bằng Hán văn, và một số không nhỏ các danh từ về nhân, vật, địa danh,
danh xưng ... chỉ là chữ "ký âm" mà các vị không biết, chỉ chạy theo
nghĩa tự Hán Việt.
"Lạc" Theo Nghĩa Tự Hán Việt
Trở lại với các tài liệu viết về cổ sử Việt Nam, ta thử tìm hiểu khi viết về Lạc Việt, lạc điền, lạc hầu, lạc tướng ... người ta viết chữ "Lạc" như thế nào và với ý nghĩa gì.
Đầu tiên, Hán Thư (khoảng thế kỷ thứ nhất) dùng chữ Lạc
(mã + các), sẽ gọi là "Lạc bộ Mã", để viết chữ Lạc Việt. Thủy Kinh Chú
của Lịch Đại Nguyên (đầu thế kỷ 6) là tài liệu cổ nhất có viết nhiều về
sử Việt, có dẫn sách Giao Châu Ngoại Vực Ký (sách viết vào thế kỷ thứ
tư, đã mất), thì viết là Lạc (các + chuy), sẽ gọi là "Lạc bộ Chuy".
Đặc biệt chỉ riêng có các sử gia Việt Nam là viết chữ Lạc (trãi + các), sẽ gọi là "Lạc bộ Trãi", như trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên đời nhà Lê (thế kỷ 15) (1)
"Lạc
bộ Mã", sách Tống Bản Quảng Vận đời nhà Tống cho nghĩa là "Ngựa trắng,
bờm đen" (2), sách nghiên cứu về Ngữ Nguyên học của Bernhard Karlgren
cũng cho nghĩa "Ngựa trắng, bờm đen" (3), Karlgren với L. Wieger còn cho
một nghĩa khác là con lạc đà (4).
"Lạc
bộ Chuy", sách Quảng Vận chú nghĩa là chim Kỵ Kỳ. Chim Kỵ Kỳ (5) thì
theo tự điển Từ Hải chính là chim cú mèo (otus sunia japonicus) (6),
sách của Karlgren cũng chú nghĩa là một loại chim (7) cũng như sách của
Wieger (8).
Riêng
về chữ "Lạc bộ Trãi", chỉ riêng có sử gia Việt là dùng. Chữ này phải
đọc là Mạch (âm Quan Thoại là Mỏ) chỉ một dân tộc (rợ) phương Bắc Trung
Quốc, hoặc là Hạc (âm Quan Thoại là Hao) nghĩa là một loài chồn, badger,
da dùng làm áo. Chúng ta sẽ hiểu tại sao chỉ có sử gia Việt dùng chữ
này ở đoạn sau.
Với
tất cả những nghĩa đó, ta thấy ngay không có nghĩa nào để chỉ dân tộc
Lạc Việt, Lạc điền, Lạc tướng cho xuôi. Vì không thể nào người ta lấy
tên chim cú mèo, vốn được coi như loài chim quái gở, (vì thế sau này
người ta còn thay chữ "Lạc bộ Chuy" là cú mèo, thành "Lạc bộ Mã" trong
các nhân danh, địa danh Trung Quốc). Trong tiếng việt còn có các thành
ngữ xấu như: Mắt cú vọ, cú dòm nhà bệnh, cú kêu ra ma, cú đói ăn con
v.v.... Nếu nói là vật tổ, thì từ trống đồng đến thần thoại chẳng thấy
có nhắc gì đến cú mèo cả.
Về
nghĩa "Ngựa trắng bờm đen" thì cũng tương tự, hơn thế nữa, bọn trí thức
phong kiến Trung Quốc, với đầu óc hẹp hòi, tự tôn và thực dân đã luôn
luôn dùng những chữ bộ khuyển (chó) để chỉ những dân tộc láng giềng
(Duẫn, Qua, Dao, Lào, Đồng). Chính vì không thích chữ "chó ngựa" như
vậy, các sử gia Việt mới dùng chữ "Lạc bộ Trãi" để thay thế (9). Vì vậy
tại sao ta thấy chỉ có sử gia Việt Nam mới dùng chữ "Lạc bộ Trãi", và cố
tình "phiên thiết" sai như vậy, để chỉ rõ đây chỉ là chữ ký âm.
"Lạc" Là Từ Tố Tiếng Việt
Một
hai học giả đã thấy được sự bất ổn khi truy nghĩa tự Lạc theo Hán văn.
Người đi xa nhất là Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc trong bài "Thử Tìm
Nguồn Gốc Ngữ Nghĩa của Từ Tố "Lạc" (10).
Như đã dẫn, sách Thủy Kinh Chú dẫn lại sách Giao Châu Ngoại Vực Ký là sách cổ nhất viết về sử nước ta viết như sau:
"Thời
xưa khi Giao Chỉ chưa có quận huyện, thì đất đai có Lạc Điền, ruộng ấy
là ruộng (cầy cấy) theo con nước thủy triềụ Dân khai khẩn ruộng ấy mà ăn
nên gọi là Lạc Dân. Có Lạc Vương, Lạc Hầu làm chủ các quận huyện. Ở
huyện phần đông có Lạc Tướng. Lạc Tướng có ấn bằng đồng, (đeo) giải (vải
mầu) xanh. Về sau con vua Thục đem ba vạn lính đánh Lạc Vương Lạc Hầu,
thu phục các Lạc Tướng. Con vua Thục nhân đó xưng là An Dương Vương"
(11)
Khi
thấy tất cả nghĩa Hán Việt của từ Lạc đều không thỏa mãn ý của chữ Lạc
trong đoạn văn trên, thì người ta đồng ý ngay là từ "Lạc" phải là từ tố
tiếng Việt. Vậy tiếng cổ "Lạc" có nghĩa là gì?
Nguyễn
Kim Thản đã rất sáng mà đặt giả thuyết đó là chữ có nghĩa "nước". Tuy
nhiên về chứng cớ, ông chỉ tìm được có một từ là "rạc" trong nước rạc
(nước ròng), cạn rặc (cạn hết) (12). (Cũng nên biết chữ Rạc (nôm) dùng
chữ Hán là "Lạc bộ Thủy" để ký âm). Thành ra phần phê bình của ông thì
hợp lý, nhưng ông chưa chứng minh được giả thuyết mà ông vừa "thấy"
được. Phần sau đây chúng tôi xin trình bầy để minh chứng rõ ràng "Lạc"
đúng là "Nước".
"Lạc" là "Nước"
Ta hãy nhìn vào bảng tiếng chỉ "nước của các dân tộc được coi là đồng chủng (?) sau đây:
BẢNG
1: Việt (hiện dùng): Nước - Mạ: Đa - Churu: Đạ - Koho: Đa - Nup: Đa -
Muong: Đa - Bana: Đák - Sơ Đăng: Đák - Cua: Đaák - Xi Tiêng: Đaác -
Mường: Rác - Việt (tiếng địa phương bắc Trung Bộ): Nác
(Nên nhớ vùng "tiếng địa phương bắc Trung Bộ" vẫn được các nhà ngữ học coi là nơi duy nhất còn giữ được nhiều tiếng cổ Việt)
Như vậy ta thấy rõ rệt Nác, hay Đák chính là cổ âm của từ "Nước".
Nay
chỉ còn mấu chốt giải thích từ âm tự "Nác" biến thành "Nước". Chúng ta
sẽ chứng minh có sự biến đổ từ âm "A" thành "Ươ" như Nguyễn Kim Thản đề
nghị (13), ta có thể theo dõi các bảng so sánh sau đây:
BẢNG 2:
a) So sánh tiếng địa phương bắc Trung Bộ (cổ hơn) với tiếng địa phương Bắc Bộ: Nác - Nước, Náng - Nướng
b) Tiếng Mường (được xem là gần với cổ Việt) so với tiếng Việt hiện đại: Rác - Nước, Lái - Lưới
Đặc biệt là tiếng Việt hiện nay ta còn thấy rất nhiều tiếng tương đương đang được dùng lẫn cho nhau:
BẢNG 3:
Bang / Bương (Bương ra)
Chàng / Chường (anh chường)
Đàng / Đường (đường đi)
Đang / Đương (đương cai)
Nàng / Nường (nõn nường)
Nhạt / Nhược (nhường nhược)
Nập / Nượp ( đi nượp nượp)
Rám / Rướm (rướm nắng)
Rán / Rướn (rướn cổ)
Tan / Tương (rách tương)
Đặc biệt hơn nữa là những từ Hán Việt âm "A" cũng thường được "nôm hóa" bằng "Ươ"
BẢNG 4:
Khang / Khương (an khương)
Lạng / Lượng (một lượng)
Lang / Lương (lương đống)
Phang / Phương (phương hướng)
Phan / Phướn (cây phướn)
Phạt / Phược (thọ phược)
Thang / Thương (vua Thương)
Không
những các âm "A" biến đổi với âm "Ươ" như trên, mà phụ âm L/N/R còn
cũng có thể thay đổi lẫn nhaụ Thí dụ xem bảng 5. Nên nhớ R, Đ, N, L đều
là âm Răng Nướu (Dental Alveolar) chỉ khác nhau ở độ cong lưỡi.
BẢNG 5:
Nác - Lạc - Rác
Năm - Lăm (mười) - Rằm (mười)
Nơi - Lơi - Rơi
Nép - Lép - Rẹp
Nung - Lung (lay) - Rung
Nỉ (non) - Lí (nhí) - Rỉ (rê)
Nêu - Lêu (...!) - Rêu
Ắt
chúng ta còn biết một số lớn người không phát được âm L (ông Nái Nợn
...) Đặc biệt là tất cả dân Việt vùng biển Bắc Bộ đều phát âm L thành N.
Theo
luật Ngữ học thì âm nào càng dễ đọc và được đại đa số người ta phát âm
được thì càng cổ hơn. (Đó cũng là trường hợp đại đa số dân Việt Bắc Bộ
không phát được âm TR (vì âm đó không có trong Việt Ngữ, là sự ký âm sai
của các giáo sĩ ngoại quốc). Như vậy âm "N" chắc chắng phải có trước âm
L.
Tuy
nhiên cũng cần nên biết về Ngữ Âm học lịch sử từ nguyên học (Etymology)
thì người ta chỉ chú trọng đến từ căn (root) còn các phụ âm đầu
(prefix), phụ âm cuối (suffix) thì rất biến đổi theo thời gian và không
gian. Cũng như chỉ chú ý đến Âm Tố (Phoneme) chứ không chú ý đến các ký
hiệu ký âm.
Nhưng
còn chữ Lạc nếu chỉ là ký âm thì người Trung Quốc đọc như thế nào ?
Điều quan trọng là phải biết họ phát âm ở thời cổ như thế nào?
Thật
may mắn, công trình nghiên cứu về cổ âm Hán đã được nhà Trung Hoa học
nổi tiếng Karlgren nghiên cứu. Tra từ điển của ông ta thấy cổ âm hán đọc
cả ba chữ Lạc (bộ mã, bộ chuy, bộ thủy) đều được đọc là "Lak" (14).
(Ngày nay người Bắc kinh đọc là Lo). Khi nghiên cứu các bản văn Phạn ngữ
ký âm bằng Hán tự, phát hiện được ở động Đôn Hoàng, chúng tôi đã kiểm
chứng lại sự chính xác của Karlgren (15).
Thành
ra chữ Lạc Điền chỉ là Ruộng Nước, chữ Lạc là chữ ký âm chẳng khác nào
chữ Dã Thụ là cây Dừa (Dà là chữ ký âm của Dừa), Ba La Mật Thụ là cây
B'La Mít (cây mít), Phù là Bìu (trầu) v.v...
Nhưng
ruộng nước là ruộng gì? Có gì đặc biệt ở đó? Phải nên biết Hán tộc bắc
phương, đất tổ là phía bắc Hoàng Hà chỉ biết trồng lúa mì (ruộng khô).
Phương nam mới là nơi trưởng sinh ra phương pháp trồng lúa gạo (ruộng
nước).
Muốn
trồng được lúa gạo, con người phải đạt được trình độ văn minh cao hơn
hết thẩy so với các hoạt động kinh tế nông nghiệp khác, vì họ phải biết
tính toán được chu kỳ thiên văn, điều thủy .... bên cạnh các kỹ thuật
như làm ra được lưỡi cầy và thuần phục được trâu (15b) (là giống vật duy
nhất để cấy được ruộng nước, vốn là một con thú hoang dữ tợn và to lớn)
v.v....
Vì
vậy dân tộc đầu tiên làm chủ được ruộng nước, ắt phải kiêu hãnh lắm (so
với tình trạng thời đó, thì còn hơn là các nước Âu châu trong thời gian
"cách mạng kinh tế" của thế kỷ 19 nhiều). Thế mà dân Lạc Việt lại là
dân tộc đầu tiên trên thế giới biết đến nó, cuộc khai quật của Wilheim
G. Solheim, thuộc đại học Hawaii lại cho thấy sau khi thử phóng xa C-14,
mẫu lúa của người Hòa Bình, cho niên đại là khoảng 3500 trước Tây Lịch,
sớm hơn ở Ấn Độ và Trung Quốc khoảng 1000 năm, nơi mà người ta vẫn cho
là quê hương của loại lúa trồng này (16). Solheim còn tin là nếu tiếp
tục tìm kiếm người ta có thể tìm được mẫu lúa, chứng tỏ là người Lạc
Việt đã biết trồng lúa hơn bốn ngàn năm trước Tây lịch (17). Cũng nên
nhắc ở đây là qua các cuộc đào tìm này người ta đã minh chứng một số
chứng liệu cụ thể khác như nền văn hóa Hòa Bình biết đến kim loại sớm
nhất thế giới, biết làm đồ gốm sớm nhất thế giới .... (18). Nhà địa chất
học Hoa Kỳ Carl Sauer từ năm 1952 cũng đã đặt giả thuyết chính người
Hòa Bình biết đến nông nghiệp sớm hơn hết, giả thuyết này cho đến năm
1966 thì được các giáo sư của các đại học Otago (Tân Tây Lan), Hawaii
(Hoa Kỳ) chứng minh bằng các mẫu đậu với niên đại cho bởi phóng xạ C-14
là 10 ngàn năm trước Tây lịch (19). Cuối cùng Solheim đặt giả thuyết nền
văn hóa Hòa Bình, ở Bắc Việt Nam có thể đã là gốc mẹ của nền văn hóa
Lưỡng Thiều Trung Quốc (nơi phát tích ra văn hóa Trung Quốc) (20).
Trở lại với từ tố "Lạc", như vậy chúng ta đã đi qua được các chặng đường:
1.Minh chứng "Lạc" là Nước, cổ âm của tiếng Việt và cổ Hán cũng trùng hợp như vậy (21).
2.Dân
Lạc Việt bản địa là chủ nhân đầu tiên trên thế giới biết về nghề làm
"ruộng nước" (lúa gạo) và rất hãnh diện khi nhận mình là "Lạc dân"
(không thể hiểu là "người nước" (22) như Nguyễn Kim Thản viết, mà nên
hiểu là "người có ruộng nước", "người làm chủ ruộng lúa", "người biết
làm nghề nông", giống như là "Engineer, Actor, Artist, Administrator ...
Mặc dù không ai phủ nhận là nền văn hóa của chúng ta cho đến hiện nay
vẫn đặt cơ sở trên nền kinh tế thuộc về "nước" (nói theo kiểu Hydraulic
Society), yếu tố "sông nước" không thể tách rời khỏi văn hóa Việt: Long
Quân ... theo cha xuống biển ... người trong một nước .... như tác giả
đã viết). Vậy thì để trả lời câu hỏi là Hùng Vương hay Lạc Vương của các
cụ đặt ra từ trước 1945, ta trả lời thế nào?
KẾT LUẬN:
Lạc Vương là Hùng Vương.
Không có vấn đề viết nhầm.
Kết
luận ta có thể thoải mái mà hiểu rằng từ Lạc trong Lạc Việt, Lạc Điền,
Lạc Tướng ... dù viết theo "Lạc bộ Chuy", "Lạc bộ Mã" hay "Lạc bộ Trãi",
đều chỉ là chữ ký âm, và ngày nay với chữ quốc ngữ, vô tình vấn đề đã
được giải quyết: chúng ta chỉ còn một chữ Lạc.
Để
tìm hiểu Lạc có nghĩa là gì hy vọng bài này đã giải quyết được câu hỏi
đó. Nhưng trở lại câu hỏi, vậy thì là Hùng Vương hay Lạc Vương? Chúng
tôi đề nghị lời giải đáp như sau:
Trước
hết về thư tịch, sách cổ hơn hết là Giao Châu Ngoại Vực Ký (thế kỷ thứ
4) do sách Thủy Kinh Chú (thế kỷ thứ 6) dẫn lại (xem phần trên) thì đều
viết là Lạc (Lạc Vương, Lạc Điền, Lạc Tướng ... ) Trái lại sách Nam Việt
Chí (thế kỷ thứ 5) do sách Sơ Học Ký (thế kỷ thứ 7) dẫn lại thì đều
viết là Hùng (Hùng Vương, Hùng Điền ....)
Riêng
sách sử chúng ta viết về sau, nhưng đặc biệt là tất cả đều viết là Lạc
(xem phần trên), trừ danh từ duy nhất là Hùng Vương, thì viết chữ Hùng (xem các sách Lĩnh Nam Chích Quái, Việt Điện U Linh, Việt Sử Lược, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, v.v....)
Sử gia Ngô Sĩ Liên còn cho biết: (trước là) Lạc Tướng sau lầm ra Hùng Tướng (Lạc Tướng hậu ngọa vi Hùng Tướng) (23)
Trước
đệ nhị thế chiến H. Maspero đọc Hán Thư cho thấy trước thế kỷ thứ 5
sách Trung Quốc chỉ dùng từ ngữ Lạc Vương và từ ngữ Hùng Vương chỉ thấy
xuất hiện từ sau Nam Việt Chí (thế kỷ thứ 5) nên chủ trương chỉ có Lạc
Vương, sở dĩ có từ Hùng Vương vì viết nhầm chữ Lạc (các + chuy) thành
chữ Hùng (quang + chuy). Đó có lẽ cũng là lý của Ngô Sĩ Liên (24).
Lê Dư và hầu hết các học giả Việt Nam sau này, đều chủ trương Hùng Vương bởi các lẽ:
1. Lạc Vương là chữ do người Trung Quốc dùng để ghi tên Vua nước Lạc, chữ Hùng Vương mới là tên hiệu của tổ nước Việt.
2. Chữ Lạc trong từ Lạc Việt viết với bộ trãi, và bộ mã thì không thể lầm với chữ Hùng được.
3.
Tất cả trong dã sử, truyền thuyết Việt ... qua đến các di tích lịch sử
đều viết hoặc mang danh hiệu Hùng Vương (xem các truyện Nhất Dạ Trạch,
Đổng Thiên Vương, Lý Ông Trọng ... các địa danh Đền Hùng, Núi Hùng ....)
Cuộc tranh luận cho đến nay chưa xong ... cho đến hôm nay.
Chúng
tôi mới được một giáo sư đồng nghiệp giới thiệu cho biết cuốn sách mang
tên là Thuyết Văn Thông Huấn Định Thanh của Chu Tuấn Thanh thì cho thấy
chữ Lạc bộ Chuy có thể được thay thế bằng chữ Hùng
(quang + chuy): chứng cớ tên Lạc Đào nhân vật trong sách Hán Thư, phần
cổ kim nhân biểu (Lạc Đào là bạn vua Thuấn) đã được Thi Hiệu (mưu sĩ của
tể tướng đời Tần là Thương Ưởng), tác giả Thi Tử Thập Nhị Thiên đổi tên
là Hùng Đào.
Tóm
lại, chúng tôi đã trình bày ý nghĩa của từ Lạc chỉ có nghĩa là Nước. Vì
nhu cầu ghi chú, sử sách cả ta lẫn Trung Quốc bắt buộc phải dùng Hán tự
để ghi chép. Riêng người Việt chúng ta thích dùng chữ Lạc bộ Trãi vì
ghét nghĩa đen của hai chữ Lạc kia: (Ngựa trắng bờm đen, cú vọ). Việc
này chỉ xẩy ra khi ta tiếp xúc với Hán tộc và biết dùng Hán tự.
Tuy
nhiên theo nghĩa đen thì cả chữ Lạc đều chẳng tốt đẹp gì. Còn chữ Hùng
thì thật là tốt đẹp hơn (đực, trống, mạnh) như trong các từ anh hùng,
hùng tráng, hùng hồn, hùng dũng .... Vậy thì khi biết được Hán tự, có
thể chẳng cần biết đến chữ nọ thay được chữ kia, dân Lạc Việt cũng đã tự
động tôn xưng vị lãnh đạo là Hùng Vương rồi. Thế mà tiền lệ Hùng Đạo đã
có từ ba trăm năm trước tây lịch, thì đương nhiên dân Lạc Việt phải gọi
vị quốc tổ mình là Hùng Vương thì càng đúng. Cho nên mãi đến sau này
mọi truyện thần thoại hay địa danh dân đều kính trọng mà gọi là Hùng
Vương, hội đền Hùng v.v.... Tóm lại, Hùng là chữ khác của chữ Lạc, là
danh từ Lạc dân tôn xưng Vua của mình, không thể có chuyện viết lầm như
H. Maspero hay Ngô Sĩ Liên đã viết.
Riêng
về các từ khác, Lạc điền, Lạc tướng, Lạc hầu .... thì hoặc vì tôn trọng
vị lãnh tụ nên ông Lạc hầu chẳng dám nhận người ta gọi mình là Hùng
hầu, hoặc vì Hùng điền thì đi quá xa nghĩa nguyên thủy là ruộng nước ...
nên dân Việt vẫn tiếp tục dùng Lạc điền, Lạc hầu .... Cho nên đến tận
ngày nay chúng ta vẫn chỉ dùng chữ Hùng Vương, còn tất cả đều là Lạc
hết: Lạc hầu, Lạc tướng, ruộng lạc ....
Riêng
về quyển sách Nam Việt Chí của Thẩm Hoài Viễn, thì ngày nay không còn,
đâu đó chỉ là những đoạn được chép lại trong Sơ Học Ký (thế kỷ thứ 7),
trong Thái Bình Hoàn Vũ Ký của Nhạc Sử đời Tống (thế kỷ thứ 10) mà có lẽ
đoản văn được nhiều người dẫn đi dẫn lại "Giao Chỉ có ruộng, người ta
gọi ruộng ấy là Hùng Điền, dân ấy là Hùng Dân, quân trưởng là Hùng
Vương, hữu ty là Hùng Hầu, đất đai chia cho các Hùng Tướng". Xem thì
thật giống đoạn dẫn ở Thủy Kinh Chú (đã dẫn ở phần trên). Có điểm khác
là Nam Việt Chí thì toàn dùng chữ Hùng.
Điều
này cũng dễ giải thích, hoặc là ông không còn biết từ tố "Lạc" là Nước,
và theo lối thay chữ của Thi Hiệu, ông dùng Hùng thay cho chữ Lạc có
nghĩa đen không tốt đẹp gì vì lý do thanh nhã, lịch sự (chắc ông phải có
cảm tình gì lắm mới để tâm huyết mà viết quyển Nam Việt Chí kia). Sử
cũng nói rằng ông đã từng sống ở Giao Chỉ thì ắt ông cũng biết về lý do
người Lạc Việt gọi ông tổ họ là Hùng Vương. Trái lại tác giả Thủy Kinh
Chú và Giao Châu Ngoại Vực Ký là quan lại của Trung Quốc, một quốc gia
phong kiến đang đô hộ dân Việt, ắt họ dùng "Lạc bộ Mã" với nghĩa đen là
"Ngựa trắng bờm đen" thì cũng đúng là "sách lược khai hóa man di" lắm
vậy.
VŨ THẾ NGỌC
Bát Bất Đường, San Jose Mùa Xuân
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét