Lược sử thành phố Bắc Kinh
Thành
phố Bắc Kinh hiện nay có một lịch sử lâu dài. Ngay từ đời nhà Chu, khi
Trung Quốc còn đang ở trong thời kỳ xã hội nô lệ (trước công nguyên 11
thế kỷ), vùng này đã là một thị trấn quan trọng của đất phong của con
cháu vua Nghiêu. Ðến đời Xuân Thu (trước công nguyên 720-476 năm), Chiến
Quốc (trước công nguyên 475-221 năm), nơi đây là kinh đô của nước Yên.
Qua đến đời Tần (trước công nguyên 221-206 năm) thì vùng này thuộc về
các quận Quảng Dương, Ngũ Dương
và Thượng Cốc. Sang đến đời Hán (trước công nguyên 206-công nguyên 220
năm) và đời Ðường (công nguyên 618-907 năm), vùng này thuộc Bộ Thứ Sử U
Châu quản hạt. Năm 938, vua Thái Tôn nhà Liêu lấy nơi đây làm kinh đô
phụ và đổi tên thành Yên Kinh (kinh đô chính của nhà Liêu ở Thường Kinh,
nay là thành Ba Lê, Taý Kỳ Ba Lâm thuộc tỉnh Liêu Ninh).
Tới
năm 1153, nhà Kim (công nguyên 1127-1279) chính thức đặt kinh đô ở Yên
Kinh và đổi tên thành Trung Ðô. (Nhà Kim có tất cả 3 kinh đô: kinh đô
chính ở Hội Ninh, nay là phía nam thành Á, thuộc tỉnh Hắc Long Giang;
kinh đô thứ hai là Trung Ðô, nay là Bắc Kinh; kinh đô thứ ba là Nam
Kinh, nay là thành phố Khai Phong thuộc tỉnh Hà Nam). Ðến đời Nguyên,
Trung Ðô được dùng làm thủ đô của đế quốc triều Nguyên, nhưng được đổi
tên gọi là Ðại Ðô. Năm 1368, Chu Nguyên Chương (Minh Thái Tổ) thống nhất
Trung Quốc, lập ra nhà Minh (1368-1644), đóng đô ở phủ Khai Phong, cố
đô của triều Bắc Tống. (nay là thành phố Khai Phong tỉnh Hà Nam). Thủ đô
Ðại Ðô của nhà Nguyên được đổi tên thành Bắc Bình. Năm 1403, Chu Lệ
(Minh Thành Tổ) lên ngôi, đổi tên phủ Bắc Bình, đất phong của mình thời
còn làm Yên Vương thành phủ Thuận Thiên. Ba năm sau (1406), Minh Thành
Tổ tổ chức quân dân tiến hành các công trình xây dựng liên tiếp 18 năm
trời, tới năm 1424, các công trình ấy hoàn thành, vua Thành Tổ dời đô
tới phủ Thuận Thiên, đồng thời đổi tên nơi đây thành Kinh Sư. Tới năm
1425, vua Nhân Tôn nhà Minh, tức Chu Cao Xí, lại đổi Kinh Sư thành Bắc
Kinh. Năm 1441, vua Anh Tôn, tức Chu Kỳ Trấn, chính thức lập Bắc Kinh
làm kinh đô nước mình.
Năm 1644, triều Mãn Thanh sau khi diệt nhà Minh, cũng đóng
đô ở Bắc Kinh, trải qua 267 năm, cho tới năm 1911, mới bị quân đội cách
mạng do Tôn Trung Sơn lãnh đạo lật đổ. Nước Trung Hoa Dân Quốc sau khi
thành lập lúc đầu vẫn đặt thủ đô ở Bắc Kinh, tới năm 1928, mới dời đô về
Nam Kinh. Bắc Kinh do đó lại dược đỏi tên lại thành Bắc Bình. Sau ngày
1-10-1949, Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa do Ðảng Cộng sản
Trung Quốc lãnh đạo ra đời, lấy Bắc Bình làm thủ đô, khôi phục lại địa
danh là thành phố Bắc Kinh cho tới nay. Hiện nay, sách báo phương tây
quen gọi thủ đô Bắc Kinh là "Bei Jing" (theo âm tiếng quan thoại) hay là
"Peking" (theo âm tiếng Quảng Ðông). Người Ðài Loan thì vẫn giữ cách
gọi là "Bei Ping" (theo âm tiếng quan thoại, nghĩa là "Bắc Bình"). Vì lẽ họ không thừa nhận tính hợp pháp của chính quyền do Trung Cộng lãnh đạo.
Tính
từ ngày thành Kê, quốc đô của nước Yên ra đời trước công nguyên 1057
năm cho tới nay thì thành phố Bắc Kinh đã có 3050 năm lịch sử. Nếu tính
từ ngày Bắc Kinh trở thành trung tâm chính trị và thủ đô của chính quyền
thống nhất toàn Trung Quốc (năm 1267) thì Bắc Kinh đã được 726 năm lịch
sử.
Ai thiết kế, tổ chức xây dựng các công trình quan trọng Bắc Kinh đời Minh?
Trước
ngày nhà Kim đặt quốc đô ở nơi đây, quy mô Bắc Kinh vẫn còn nhỏ lắm.
Năm 1149, vua Hải Lăng nhà Kim là Hoài Nhan Lượng định dời đô đến đất
Yên Châu, bèn sai thợ vẽ vẽ đồ án, quy cách cung điện Biện Kinh, cố đô
của triều Bắc Tống để làm mẫu. Sau đó, động viên 800 ngàn dân phu và 400
ngàn binh lính tiến hành xây dựng và cử Lương Hán Thần làm Chánh Sứ Ðại
Nội Yên Kinh, Khổng Nhân Chu làm Phó Sứ, phụ trách điều khiển đoàn quân
xây dựng này. Trải qua 3 năm vất vả xây cất, các công trình này mới
hoàn thành. Di tích ấy hiện vẫn còn ở vùng cửa thành Hội ở phía tây nam
ngoại ô thành phố Bắc Kinh ngày nay.
Người
thiết kế và tổ chức các công trình xây dựng đô thành và cung điện Ðại
Ðô, thủ đô của nhà Nguyên theo các sử gia nghiên cứu là một người Á Rập,
tên là Dã Hắc Diệp Nhi. Vậy ai là người đứng ra thiết kế và tổ chức thi
công xây dựng các công trình hoàng cung và thành phố Bắc Kinh đời Minh
cách đây hơn 500 năm?
Cách
đây hơn 40 năm, có một nhà sử học Trung Quốc tên là Trương Tú Dân liên
tiếp phát biểu một số bài vở ghi nhớ công lao của Nguyễn An trên các báo
chí đương thời với những đầu đề như "Dân chúng Bắc Bình nên kỷ niệm
Nguyễn An, vị Thái giám nhà Minh, người An Nam" [1], "Nguyễn An, nhà
kiến trúc thiên tài xây dựng Ðại Bắc Kinh" [2], "Sự đóng góp của người
Giao Chỉ cho Trung Quốc đời Minh" [3]. Sau năm 1953, các nhà sử học Việt
Nam như Trần Văn Giáp, Minh Tranh, Ðào Duy Anh và Ðặng Thai Mai lần
lượt sang thăm Trung Quốc, đến Thư viện Bắc Kinh thu thập sử liệu Việt
Nam. Phía Trung Quốc nhiều lần giới thiệu với khách Việt Nam về những
cống hiến của Nguyễn An đối với công cuộc xây dựng Bắc Kinh và coi đó là
giai thoại về mối tình hữu nghị Việt-Trung lâu đời. Nhưng những năm gần
đây, nhiều tài liệu Trung Quốc khi nói tới các công trình xây dựng Bắc
Kinh đời Minh, chẳng hạn như quyển "Niên Biểu Ðại Sự Lịch Sử Trung Quốc"
và quyển "Giới Thiệu Sơ Lược Về Cố Cung" của Thẩm Khởi Vĩ khi nhắc
tới chuyện Minh Thành Tổ và Minh Anh Tôn xây dựng Bắc Kinh, đều không
có tên của Nguyễn An. Quyển "Danh lam cổ tích Bắc Kinh" liệt kê danh
sách những người tham dự công cuộc xây dựng cung điện Bắc Kinh, có Ngô
Trung, Thái Tài, thợ mộc Khoái Tường, thợ nề Dương Thanh và thợ đá Lục
Tường, nói "Lục Tường có đóng góp rất to trong công cuộc xây dựng cung
điện Bắc Kinh". Tuy quyển này có thừa nhận sự đóng góp về quy hoạch
thiết kế và thi công của Nguyễn An cũng không nhỏ,
nhưng đặt tên của Nguyễn An ở chỗ cuối cùng, đứng sau cả thợ nề, thợ
đá. Ðiều đó hiển nhiên là một sự bất công. Cuốn "Kỷ Niên Lịch Sử Bắc
Kinh" ghi chép đời vua Minh Anh Tôn có hạ lệnh cho Thái giám Nguyễn An
xây dựng chín cửa thành lầu Kinh Sư và đốc công xây dụng tường thành Bắc
Kinh, nhưng khi nói đến các công trình kiến trúc quy mô lớn nhất thời
đó như hai cung, ba điện thì lại không có tên tuổi của Nguyễn An. Hơn
nữa, lại lầm đem Tây cung đặt vào vị trí của Cố cung ngày nay, đem điện
Phụng Thiên của Tây cung gán vào điện Phụng Thiên-Thái Hòa của Cố cung
ngày nay [4]. Vĩnh Lạc
năm thứ 8 (1410) và năm thứ 12 (1414), vua Minh Thành Tổ hai lần thân
chinh, khi ban sư về triều, đã làm lễ chúc mừng ở điện Phụng Thiên. Ðiện
Phụng Thiên này là điện Phụng Thiên của Tây cung, chứ không phải là
điện Phụng Thiên-Thái Hòa của Cố cung ngày nay. Vì điện Phụng Thiên-Thái
Hòa của Cố cung mãi tới năm Vĩnh Lạc thứ 15 (1417) mới bắt đầu khởi công xây cất.
Mấy
năm trước đây, tạp chí "Văn Hiến" do Thư viện Bắc Kinh xuất bản lại đem
công lao xây dựng hoàng cung Bắc Kinh hoàn toàn quy vào một anh thợ mộc
tên là Khoái Tường, người gốc Hương Sơn, Tô Châu, chẳng nhắc đến Nguyễn
An một lời [5]. Ðiều này lại càng không phù hợp với sự thực lịch sự Các
quyển "Hoàng Minh Kỷ Lược" của Hoàng Phố tuy quả có chép chuyện Khoái
Tường trong những năm Vĩnh Lạc
được triệu về triều tham gia công việc xây dựng hoàng cung, được vua
Hiến Tôn nhà Minh khen là Khoái Lỗ Ban. Nhưng thực ra, Khoái Tường chỉ
phụ trách một bộ phận của công trình. Sách "Ngô Lương Chí" đời Khang Hy
chép rằng: Vĩnh Lạc
năm thứ 15 (1417) xây dựng cung điện Bắc Kinh và năm 1436, đời Chính
Thống vua Anh Tôn nhà Minh trùng tu lại ba cung điện với quy mô to lớn,
đều do Khoái Tường phụ trách. Nhưng đây chẳng qua chỉ là những lời lẽ
khoe khoang ở chốn quê nhà. Các sử sách chính thức của nhà Minh, như
"Minh Sử", "Minh Thực Lục" đều không có ghi chép như thế. Ngược lại,
nhiều sử sách khi nói đến các công trình xây dựng quan trọng đời Minh
đều nhắc tới Nguyên An. Thí dụ như cuốn "Thủy Ðông Nhật Ký" của Diệp
Thịnh đời Minh ghi chép rằng: "Nguyễn An, cũng gọi
là Á Lưu, người Giao Chỉ, thanh khiết, giỏi tính toán, có biệt tài về
kiến trúc. Trong các công trình xây dựng thành trì Bắc Kinh và chín cửa
thành lầu, hai cung, ba điện, năm phủ, sáu bộ ở Bắc Kinh và nạo vét sông
Trạch Chư ở thôn Dương, đều có nhiều công lao to lớn [6]. Các nhân viên
thuộc hạ của Nguyễn An ở Bộ Công chẳng qua chỉ là những người thừa hành
phận sự chấp hành những công trình do Nguyễn An quy hoạch, thiết kế ra
đó thôi."
Các
sách "Quốc Triều Chính Lục" của Tiêu Hoành, "Minh Sử Thiết" của Doãn
Thu Hoành đời Minh và "Minh Thư" của Phố Duy Lân, "Ngu Sơn Tập" của Thi
Nhuận Chương đời Thanh đều đồng thanh nói rằng các công trình xây dựng
quan trọng ở Bắc Kinh thời đó như thành trì Bắc Kinh, chín cửa thành
lầu, hai cung, ba điện và các dinh thự năm phủ, sáu bộ của triều đình
nhà Minh đều do Nguyễn An một tay phụ trách thiết kế, quy hoạch, mắt đo,
bụng nhẩm tính, nhanh nhẹn, chính xác, mọi việc xếp đặt đâu ra đó, đạt
yêu cầu của hoàng thượng. Thuộc hạ trong ngành ai nấy đều râm rấp tuân
theo. "Minh Sử" quyển thứ 304 phần phụ lục Truyện Kim Anh cũng có đoạn
nói về Nguyễn An như sau: "Nguyễn An người Giao Chỉ, đầu óc minh mẫn,
kỹ thuật tài giỏi hơn người, vâng mệnh vua Thành tổ xây dựng thành trì,
cung điện và các dinh thự của các phủ, bộ, mắt đo, bụng nhẩm tính đâu ra
đó, đều đúng kế hoạch. Công bộ chỉ biết vâng theo, chấp hành. Ðời vua
Anh Tôn (1436-1449), Nguyễn An phụ trách dựng lại ba điện và trị thủy
sông Dương Thôn, lập được công to". "Chính Thống Thực Lục" đời Anh Tôn
quyển 54, 84, 91 và 130 cũng có ghi chép những nội dung tương tự như thế, quy công cho Nguyễn An, chẳng hạn như:
"Ngày
10 tháng 2 năm thứ 6 Chính Thống (1441), hai cung ba điện xây dựng hoàn
thành, nhà vua ban thưởng cho Thái giám Nguyễn An và Tăng Bảo (Sâm Bảo)
mỗi người 50 lạng vàng, 100 lạng bạc, 8 tấm lụa, 1 vạn quan tiền; thăng
thưởng cho Ðô đốc Ðồng Tri Thẩm Thanh tước Tu Vũ Bá, ăn
lộc 1.000 thạch, con cháu được quyền thế tập; Công bộ Thượng Thư Ngô
Trung thăng chức Thiếu Soáị Các nhân viên công tác khác cũng được
ban thưởng tiền bạc, lụa là khác nhau." Tháng 11 năm đó, nhân việc hai
cung, ba điện xây dựng hoàn thành, nhà vua ra lệnh đại xá toàn quốc và
định đô Bắc Kinh.
Tháng
4 năm sau (1442), vua Anh Tôn thấy các cung điện hoàng thành đã xây
dựng xong, bèn ra lệnh cho đội quân lao động ấy tiếp tục tiến quân xây
phủ Tôn nhân [7], Bộ Lại, Bộ Lễ, Bộ Hộ, Bộ Binh, Bộ Công, Hồng Lô Tự,
Khâm Thiên Giám [8], Viện Thái Y, Viện Hàn Lâm và Quốc Học (Quốc Tử
Giám)....
"Chính
Thống Thực Lục" tuy không ghi chép rõ ràng việc nhà vua hạ lệnh cho
Nguyễn An phụ trách những công trình này, nhưng các sử sách khác đều có
nói rằng các dinh thự, ty sở thuộc 5 phủ, 6 bộ đều do Nguyễn An quy
hoạch, tổ chức, xây dựng. Chỉ tiếc là những tòa kiến trúc đó về sau đều
bị phá hủy hầu hết, chỉ còn lại có tòa kiến trúc Quốc Tử Giám trong cửa
An Dinh là hoàn chỉnh, nay đổi thành Thư viện Thủ đô Bắc Kinh.
Ðể
hiểu rõ giá trị đóng góp của Nguyễn An trong việc thiết kế, xây dựng
các kiến trúc thời đó, chúng ta hãy thử đi sâu nghiên cứu vài công trình
quan trọng nói trên.
1. Thành trì Bắc Kinh.
Thành trì Bắc Kinh đời Minh lúc đó chu vi 68 dặm. Do cấu tạo thuần túy bằng đất, nên tường thành dễ bị sụp đổ. Những năm Vĩnh Lạc
(1403-1424), Tuyên Ðức (1426-1435) có tu sửa đôi chút, nhưng bên trong
tường thành vẫn còn làm bằng đất, nên gặp phải khi mưa dầm lụt lội,
tường thành thường hay sụp đổ.
Ðến
đời vua Anh Tôn năm thứ 10 (1445), Nguyễn An vâng lệnh triều đình đốc
công tu sửa tường thành, kể cả phía trong và phía ngoài, khiến cho tường
thành Bắc Kinh từ đó cao đến 3 trượng 5 thước (đời Minh mỗi thước dài
31,1 cm hiện naỵ 3 trượng rưỡi tức là 10 mét 88,5 cm), nền tường thành
dày 6 trượng 2 thước (19 mét), mặt thành rộng 5 trượng (15,5 mét). Mấy
năm trước đây, các tường thành Bắc Kinh đều bị phá hủy hết.
2. Chín cửa thành lầu.
Chín
cửa thành lầu do Nguyễn An thiết kế, đốc công xây dựng lúc đó là các
cửa nội thành: cửa Chính Dương, cửa Sùng Văn, cửa Tuyên Vũ, cửa
Triều Dương, cửa Ðông Trực, cửa Phủ Thành, cửa Tây Trực, cửa An Dinh và
cửa Ðức Thắng. Mỗi cửa thành trên đều có xây lầu chính và một nguyệt
thành - một thành nhỏ hình bán nguyệt bao quanh che chở cho cửa thành.
Do kiến trúc nguy nga đồ sộ, hùng vĩ, nên sau khi xây xong đều
trở thành những thắng cảnh ở kinh đô lúc bấy giợ Rất tiếc là hầu hết
các cửa thành lầu này qua thời gian trên 500 năm, trải qua nhiều cuộc
biển dâu, nay chỉ còn có cửa thành lầu Chính Dương tồn tại.
Cửa
Chính Dương (Chính Dương Môn) nay gọi là Tiền Môn, nằm ở phía nam quảng
trường Thiên An Môn, là cửa chính của Nội thành Bắc Kinh đời Minh và
đời Thanh, được xây dựng từ đời Vĩnh Lạc
năm thứ 19 (1421), cao 42 mét, mặt tiền rộng bảy gian, ngói ống màu
xám, phía cạnh màu xanh lá cây, mái to mà cong, dưới mái, mặt tiền và
mặt hậu có nhiều cửa to và cửa sổ, cửa sổ hình trám. Tầng dưới tường
gạch màu đọ Mặt trước và mặt sau có một cửa to dùng để cho người qua lại
hay xe cộ ra vào. Trên lầu thành, còn có lầu cao dùng để bắn tên, gọi
là "tiễn lầu". Hình dáng nóc, mái tiễn lầu cũng giống
như thành lầu, có khác là trên tường dưới mái hiên ở ba phía đông, tây
và nam có tất cả 82 cửa nhỏ dùng để nhắm bắn tên ra bên ngoàị Phía bắc
chia thành 5 gian, có ba cửa thông ra sân thành lầu. Cửa lầu thành Chính
Dương từng bị hỏa hoạn và chiến tranh phá hoại nhiều lần, nhưng nhờ
đuợc tổ chức trùng tu, nên kết quả hình thành cảnh vật như ngày nay.
3. Hai cung, ba điện.
Hai cung ba điện là một quần thể kiến trúc to nhất ở Cố cung.
Cố cung cũng gọi
là "Tử Cấm Thành", là hoàng cung của nhà Minh và nhà Thanh, nằm ở trung
tâm thành phố Bắc Kinh. Nơi đây bảo tồn quần thể kiến trúc cổ đại Trung
Quốc quy mô to nhất và hoàn chỉnh nhất, là trung tâm tiêu biểu cho chế
độ phong kiến quân chủ lâu dài vào bậc nhất thế giớị Năm Vĩnh Lạc
thứ 4 (1406), Minh Thành Tổ bắt đầu xây dựng Bắc Kinh. Lúc bấy gió,
công trình trọng điểm là xây cất Tử Cấm Thành (Hoàng cung) và hoàng
thành. Tử Cấm Thành nam bắc dài 960 mét, đông tây rộng 760 mét, trong
đó, theo đường trục giữa, phía trước có ba tiền điện: điện Phụng Thiên,
điện Hoa Cái và điện Cẩn Thân. Phía sau có ba hậu điện: cung Càn Thanh,
điện Giao Thái và cung Khôn Ninh. Cửa chính Tử Cấm Thành là cửa Ngọ Môn ở
phía nam. Cửa bắc là Huyền Vũ Môn. Hai phía đông
tây có cửa Ðông Hoa Môn và Tây Hoa Môn. Chung quanh Tử Cấm Thành có
sông đào bao bọc bảo hô Hai bên bờ dùng đá miếng xếp thành. Ðồng thời
tiến hành còn có các công trình cải tạo thủ dô Bắc Kinh. Ngoài ra, ở Nam
giao (ngoại ô phía nam) Bắc Kinh còn xây dựng Thiên Ðàn với quy mô to
lớn. Những công trình này khởi công xây dựng từ năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406) tới năm Vĩnh Lạc
thứ 18 (1420) cơ bản hoàn thành, trải qua 570 năm, 24 đời vua. Tuy đời
Minh và đời Thanh có tu sửa và mở mang nhiều lần, song bố cục vẫn như
buổi ban đầu.
Cố
cung ngày nay chiếm diện tích 72 vạn mét vuông, cung điện, lầu gác,
kiến trúc trên 9900 ngôi (ngụ ý "cửu cửu"), diện tích kiến trúc là 15
vạn mét vuông. Chung quanh là tường thành cao hơn 10 mét, chu vi dài độ 3
cây số. Bốn góc có lầu gác, phong cách độc đáo, tráng lệ. Ngoài tường
hoàng thành có sông đào bao quanh hộ vệ thành, mặt sông rộng 52 mét,
khiến cho hoàng cung thành một thành lũy trang nghiêm, kiên cố.
Cách bố cục của các kiến trúc trong Cố cung ngày nay vẫn chia thành 2
phần: phần triều ngoại và phần hướng đình. Phần triều ngoại lấy ba điện
Thái Hòa, Trung Hòa và Bảo Hòa làm trung tâm, hai điện Văn Hoa và Vũ Anh ở
hai bên cạnh sườn. Phía nam Cố cung là một sân trước (tiền đình) hình
dài theo chiều nam bắc, có cửa Thiên An Môn và cửa Ðoan Môn, hình thành
trước cung điện có một loạt dài kiến trúc. Cửa chính hoàng thành là cửa
Ngọ Môn ở phía nam, cửa bắc là Thần Vũ Môn, cửa
đông là Ðông Hoa Môn, cửa tây là Tây Hoa Môn. Sau Ngọ Môn là một quảng
trường hình vuông. Giữa quảng trường có con sông nhỏ - sông Kim Thủy uốn
khúc lượn quanh. Trên sông Kim Thủy có 5 chiếc cầu làm bằng đá trắng
Hán Bạch ngọc. Phía bắc, sau cầu Kim Thủy, là cổng Thái Hòa mái to, hai
bên có 9 điện nhỏ. Hai phía đông tây có hai cổng Hiệp Hòa và Hy Hòa có
thể thông sang điện Văn Hoa và điện Vũ Anh. Sau khi vào cổng
Thái Hòa, đối diện là điện Thái Hòa. Sau điện Thái Hòa là điện Trung
Hòa. Tiếp đó là điện Bảo Hòa Ba điện này đều hình vuông, tường đỏ, xây
trên nền đá trắng Hán Bạch ngọc cao độ 2 mét, theo hình chữ "công" (ứu),
mái bốn phía lợp ngói lưu ly, chóp mũi nhọn
mạ vàng. Bốn bề của ba điện trên có mái che, dưới có trụ đá vây quanh.
Trên các trụ đá, điêu khắc rồng bay phượng múa. Mặt tiền và mặt hậu của
mỗi điện, mỗi phía có ba bậc thềm đa. Giữa các bậc đá đó có điêu khắc
Ngự lộ với hình rồng lượn trên mây, sóng gợn phía dưới.
Ðiện
Thái Hòa phía trước rộng 11 gian, phía sau sâu tới 5 gian. Ðiện cao 35
mét, bề ngang 63 mét, mái cong to, kết cấu điện phức tạp, tổng diện tích
là 2.377 mét vuông. Các trụ cột trong điện đều được sơn son thếp vàng,
đầy vẻ giàu sang phú quỵ Ðiện Thái Hòa là kiến trúc điện cấu tạo bằng gỗ
to nhất và đẹp nhất ở Cố cung cũng như
ở Trung Quốc ngày nay. Các vị hoàng đế Trung Hoa đời Minh, đời Thanh
trước đây thường ngự trên chiếc ngai vàng tượng trưng cho vương quyền
phong kiến ở trong điện này để chủ trì các buổi lễ lớn, quan trọng như
lên ngôi, mừng sinh nhật, Tết Xuân, Tết Ðông Chí, Xuất chinh....
Ðiện Trung Hòa là nơi nhà vua tiếp kiến thành viên Nội các, Lễ bộ và Thị vệ triều bái, đôi khi cũng xem biểu chương, chúc từ và làm việc ở đây.
Ðiện
Bảo Hòa nằm ở sau điện Trung Hòa, hàng năm đến đêm trừ tịch, nhà vua
thường làm tiệc thết đãi các hoàng thân vương công quý tộc và quần thần
văn võ trong kinh đô lúc đó. Cuối đời Càn Long, nơi đây trở thành chốn
điện thi (thi đình) cho các khảo sinh sau khi qua các đợt thi hương, thi
hội.
Phần nội đình (cũng gọi
là hướng đình) bắt đầu từ cổng Càn Thanh nằm sau điện Bảo Hòa. Các kiến
trúc ở đường trục giữa có cung Càn Thanh, điện Giao Thái và cung Khôn
Ninh. Cuối cùng là Vườn hoa Ngự và điện Khâm An. Hai phía đông, tây điện
Càn Thanh có 6 Ðông cung và 6 Tây cung. Ðây là nơi nhà vua cùng các hậu
phi, hoàng tử cư ngụ, vui chơi và thờ cúng. Phía nam 6 Ðông cung là
điện Phụng Thiên, Trai quán và cung Dục Khánh. Phía trước Tây cung là
điện Dưỡng Tâm. Phía đông đường trục giữa có nhóm cung Ninh Thọ. Phía
tây đường trục giữa có các cung Từ Ninh, Thọ Khang và điện Anh Hoa. Cung
Ninh Thọ và cung Từ Ninh còn có vườn hoa riêng....
Hai
cung Càn Thanh và Khôn Ninh do Nguyễn An thiết kế, xây dựng lại đời vua
Anh Tôn, đời Thanh tuy có trùng tu nhiều lần, song tên vẫn giữ y như cũ. Ba điện Phụng Thiên, Hoa Cái và Cẩn Thân xây dựng lần đầu tiên hoàn thành vào tháng 12 năm Vĩnh Lạc
thứ 18 (1420). Tết nguyên đán tháng giêng năm sau (1421), Minh Thành Tổ
ra ngự ở điện Phụng Thiên nghe quần thần chúc mừng, và đại xá toàn
quốc. Nhưng đến ngày mồng 8 tháng 4 năm đó, ba điện này đều bị sét đánh,
lửa cháy, thiêu hủy ra tro tàn.
Các
cung điện của Trung Quốc thời cổ, kết cấu đa số làm bằng gỗ, nên rất dễ
bị lửa bốc cháy. Ngoài việc binh đao khói lửa chiến tranh phá họai gây
ra, hiện tượng bị sét đánh bốc cháy cũng là nguyên nhân chính đưa
đến tai nạn hỏa hoạn. Vì hồi đó, Trung Quốc chưa có kim thu lôi. Một
khi vật kiến trúc to lớn bằng gỗ bị sét đánh thì dễ xảy ra hỏa hoạn, và
thường thường là bị thiêu trụi, vô phương cứu chữa. Sau trận hỏa hoạn
này, vua Minh đành chỉ ngự triều ở cửa Phụng Thiên, vì không còn khả
năng tài chính để xây dựng lại nữa. Mãi cho đến đời chắt của Thái Tôn là
vua Anh Tôn, tức Chu Kỳ Trăn, nước nhà thái bình, nông dân được mùa,
trong và ngoài nước không có việc chinh chiến, dân giàu nước mạnh, mới
có sức người và sức của đi trùng tu lại. Tháng 3 năm Chính Thống thứ 6,
Minh Anh Tôn phái Nguyễn An thiết kế, tổ chức thi công xây dựng lại ba
điện này, kết quả so với đợt xây dựng trưóc càng thêm tráng lệ huy
hoàng. Nhưng đến ngày 13 tháng 4 âm lịch năm Gia Tĩnh thứ
36 (1557), Bắc Kinh lai gặp phải một trận mưa to gió lớn, giờ Tuất (độ
7-9 giờ tối), đột nhiên có một trận lửa bốc cháy. Ngọn lửa bắt đầu từ
điện Phụng Thiên, cháy lan ra điện Hoa Cái và điện Cẩn Thân, gây ra
thiệt hại nặng nề.
Ðến năm Gia Tĩnh thứ
38 (1559), tham khảo đợt xây dựng trước, ba điện lại một lần nữa được
khởi công xây dựng lại. Ngày 3 tháng 9 năm 1562, công trình hoàn thành.
Lần này, điện Phụng Thiên được đổi tên thành điện Hoàng Cực, điện Hoa
Cái đổi thành điện Trung Cực, điện Cẩn Thân đổi thành điện Kiến Cực. Ðến
đời Thuận Trị năm thứ 2 (1645), lại đổi tên ba điện thành Thái Hòa,
Trung Hòa và Bảo Hòa cho đến ngày nay.
Qua
những điều kể trên, chúng ta có thể thấy rõ tác dụng của Nguyễn An
trong công cuộc xây dựng Bắc Kinh và hoàng cung nhà Minh trong lịch sử
Trung Quốc. Người Mãn Thanh từ đông bắc Trung Quốc, ngoài Trường Thành
vào làm chủ Trung Nguyên, song le, mọi chế độ, cung đình đều giữ y theo
nhà Minh. Vì thế, Cố cung nhà Thanh hiện nay, dù đã trải qua nhiều cuộc
tu sửa, mở mang, nhưng trên thực tế vẫn là Cố cung của nhà Minh. Ngày
nay, nếu ta theo đường phía tây đi tham quan Cố cung, vẫn còn có thể
trông thấy một số kiến trúc cung điện xây cất từ đời nhà Minh. Vì thế,
phủ nhận sự đóng góp của Nguyễn An về mặt này là một điều thiếu khách
quan.
Thực
ra, Nguyễn An không những là một nhà tổng kỷ sư kiến trúc thiên tài, mà
còn là một nhà tổ chức, chỉ huy xuất sắc xây dựng các công trình quan
trọng thời bấy giờ. Tháng 10 năm 1436 đời vua Minh Anh Tôn, khi chuẩn bị
xây dựng công trình chín cửa thành lầu ở Kinh Sư, Công bộ Thị lang Thái
Tín cho rằng: "Một công trình quy mô to lớn như vậy, cần phải có nhiều
sức lao động, ít nhất phải trưng dụng 18 vạn dân phu." Nhà vua giao cho
Nguyễn An toàn quyền phụ trách công trình này. Nguyễn An chỉ lấy có hơn 1
vạn quan binh đang thao luyện ở Kinh Sư cho tạm ngừng thao tập, tổ chức
họ tham gia xây dựng chín cửa thành lầu. Ðể cho quan binh làm tốt nhiệm
vụ này, Nguyễn An đã phát lương bổng và cung cấp thực phẩm đầy đủ cho
đội quân lao động ấy. Trong quá trình xây cất, Nguyễn An lại chú ý tổ
chức họ kết hợp lao động và nghỉ ngơi một cách thích đáng. Kết quả,
tháng giêng năm 1437 khởi công, đến tháng 4 năm 1439, chín cửa thành
lầu, bao gồm cả hào thành, cầu cống có liên quan đều hoàn tất một cách
tốt đẹp. Như trên đã nói, công trình quy mô to lớn này, đáng lẽ phải huy
động tới 18 vạn dân phu, song le, Nguyễn An chỉ dùng có hơn 1 vạn quan
binh là có thể hoàn thành nhiệm vụ đạt yêu cầu. Dân chúng không ai bị
quấy nhiễu. Dương Kỳ, người đời Minh đã viết trong bài "Ðô thành lam
thắng thi lãm" trong quyển thứ 23 "Ðổng lý tục tập" rằng: "Sở dĩ sự
việc nêu trên đạt được thành công, đó là do Nguyễn An giỏi về quy
hoạch, trung thành với việc công, đối với thuộc hạ, nhiệt tình quan tâm,
giúp đỡ, nên mới có kết quả như vậy."
Tháng
3 năm 1440, Nguyễn An vâng mệnh vua Anh Tôn xây lại ba điện Phụng
Thiên, Hoa Cái và Cẩn Thân (tiền thân của ba điện Thái Hòa, Trung Hòa và
Bảo Hòa ngày nay). Trong đợt xây dựng này, Nguyễn An chỉ huy 7 vạn thợ
nghề và quan binh hiện dịch tạm ngừng thao luyện để tham gia thi công.
Ðến tháng 10 năm sau (1441) thì hoàn thành toàn bộ công trình. Kết quả,
vua Anh Tôn rất vừa ý, trọng thưởng cho Nguyễn An. Ðiều khiển một đoàn
quân lao động gồm 70 ngàn người, nếu người chỉ huy không có tài tổ chức,
biết cách điều động, xếp đặt, thì tất không thể nào khiến cho mọi người
đều tin phục mình mà chung sức chung lòng trong vòng thời gian ngắn một
năm rưỡi hoàn thành xong toàn bộ ba công trình to lớn, phức tạp như
vậy.
Ðánh giá Nguyễn An
Ngày
nay, mỗi ngày có hàng vạn khách du lịch thập phương đến thăm Cố cung.
Ai nấy đều vô cùng khen ngợi cảnh kiến trúc đồ sộ, huy hoàng, tráng lệ,
tầng tầng lớp lớp, nào cung nào điện, tường đỏ ngói vàng, đặc biệt là
điện Thái Hòa với nét kiến trúc độc đáo và quy mô to lớn, hùng vĩ hiếm
thấy của nó trên đời, khiến cho người người hết lời tán thưởng. Các
cung điện trưng bày các của báu về nghệ thuật lại càng khiến cho mọi
người ưa chuộng. Nhưng mấy ai được biết rằng điện Thái Hòa này trước kia
vốn do một người Việt Nam quy hoạch, thiết kế, xây dựng nên.
Nguyễn
An là người Việt Nam vì sao tới Bắc Kinh? Do đâu được các vua chúa nhà
Minh tin yêu như vậy? Muốn tìm hiểu vấn đề này, ta hãy quay ngược dòng
thời gian, lần tìm những trang sử cũ.
Ðời vua Vĩnh Lạc
năm thứ 5 (1407), Trương Phụ, một vị tướng trẻ 33 tuổi đã bình định
vùng An Nam trong vòng 8 tháng. Sau khi bắt được cha con Hồ Quý Ly (Hồ
Quý Ly tổ tiên gốc người Chiết Giang, Trung Quốc), Trương Phụ theo lệnh
vua, khôi phục địa danh "Giao Chỉ" như đời Hán, tỏ ý sau hơn 400 năm địa
phương cát cứ, độc lập, Trung ương mất đất, giờ khôi phục lại chủ quyền
của Trung Quốc trên phần đất này. Tháng 10 năm 1407, căn cứ theo chiếu
chỉ của Minh Thành Tổ, "Sau khi bình định vùng An Nam, nên rộng rãi tìm
kiếm các người hiền đức và có tài nghề trong vùng, đối xử lễ phép, tuyển
đưa về Kinh", Trương Phụ cho người đưa 9.000 các loại nhân tài hiền
đức, giỏi về Minh kinh, văn hóa và binh pháp cùng với 7.700 các loại
nghệ nhân về Nam Kinh cho nhà vua tuyển dùng. Ngoài ra, Trương Phụ còn
chọn một số thanh, thiếu niên Giao Chỉ dáng mạo thông minh, tuấn tú đưa
về Nam Kinh, cho ăn học, đào tạo làm Thái Giám để hầu giúp vua, trong số
đó có Nguyễn An, Phạm Hoành, Vương Cẩn.... (Tháng 11 năm đó, cha con Hồ
Quý Ly bị Liễu Thăng đưa về Trung Quốc, vì là tội nhân, nên không thuộc
diện này. Hồ Quý Ly sau được tha về Quảng Tây làm lính tuần, con trưởng
của Hồ Quý Ly là Hồ Hán Thương, do giỏi về binh khí, dâng vua súng
thần, được cử trông coi chế tạo vũ khí, năm
1445 được thăng làm Công bộ Thị lang. Con cháu Hồ Hán Thương nối nghiệp
cha, làm đến chức Hữu Thị lang Công bộ). Nhà Minh từ đời Tuyên Ðức trở
đi, quyền hành của Thái giám rất lớn, thế lực của phe Thái giám Giao Chỉ
lại càng mạnh. Mọi việc bảo vệ, phò tá Thái Tử, quyết định chinh chiến
đối ngoại, đề cử các quan chức trông coi việc ngoại thương, nắm giữ
quyền hành về tài chính.... đều có Thái giám phe Giao Chỉ tham dự, chẳng
hạn như Phạm Hoành dùng hơn 70 vạn lạng bạc đi xây cất chùa Vĩnh An (Vĩnh An Tự) ở Hương Sơn, tây nam Bắc Kinh; Vương Cẩn (tức Trần Vũ) được
chiếu vua cho miễn chết, lại được ban cho cung nữ và hàng vạn lạng bạc.
Nguyễn An được các vua Thành Tổ, Anh Tôn tin dùng giao cho trọng trách
xây dựng Bắc Kinh.....
Trong
thời kỳ xã hội phong kiến chuyên chế ở Trung Quốc, bọn hoạn quan đã gây
ra nhiều tội ác. Số người tốt rất hiếm. Nguyễn An tuy là Thái giám,
nhưng ông có khác với những Thái giám thường khác. Không những có công
trong việc xây dựng Bắc Kinh, mà còn có nhiều cống hiến trong công việc
trị thủy. Sử sách cho biết, Nguyễn An ngoài công việc thiết kế chỉ huy
xây dựng các công trình quan trọng ở Bắc kinh ra, còn phụ trách công tác
trị thủy ở sông Dương Thôn, sông Tái Dương và sông Thu Lịch. Ðiều đó có
lẽ là vì công việc của Công bộ là trông coi về xây dựng các công trình
kiến trúc và thủy lợi mà Công bộ thời đó do Nguyễn An phụ trách. Nguyễn
An cũng từng
trông coi việc vận tải đường thủy từ Thông Châu (nay là thành phố Nam
Thông, tỉnh Giang Tô) đến Nam Kinh. Năm Cảnh Thái thứ 7 (1456) đời Minh
Ðại Tôn, vùng Trương Thu, Sơn Ðông, sông Hoàng Hà vở đê, hàn mãi không
được. Triều đình lại cử Nguyễn An đi trị thủy, không may bị bệnh mất
trên đường công tác. Công lao của Nguyễn An tuy to lớn như vậy, song ông
ta sống một cuộc đời rất là thanh bạch. Khi mất, nhà còn không đầy 10
lạng bạc. Phẩm hạnh thanh cao của Nguyễn An đã khiến cho nhiều người
đương thời hết sức khâm phục, cảm mến. Có người nhận xét rằng, Nguyễn An
cùng với Trịnh Hòa [9] là hai vị Thái giám xuất sắc nhất trong lịch sử
Trung Hoa. Nhưng nay, tên nhà hàng hải Thái giám Tam bảo Trịnh Hòa ở
Trung Quốc cũng như
trên thế giới, nhiều người rất quen thuộc, nhưng tên tuổi của Nguyễn An
thì không mấy ai được biết. Ngay cả giới sử học Trung Quốc đa số cũng chẳng biết Nguyễn An là ai. Ðó cũng là một điều bất hạnh.
Theo
người viết thì đem Nguyễn An đi so sánh với Trịnh Hòa là một việc không
cần thiết. Vì lẽ hoàn cảnh sinh hoạt của mỗi người một khác. Phạm vi
hoạt động của họ cũng không giống nhau. Khuếch đại vai trò của Nguyễn An trong đầu thế kỷ 14, nói ngay từ năm Vĩnh Lạc
thứ 4 (1406), Minh Thành Tổ mới bắt đầu xây dựng thủ đô Bắc Kinh,
Nguyễn An đã phụ trách tổng thiết kê xây dựng Bắc Kinh như các tác giả
"Trung-Việt quan hệ sử giản biên" là chuyện khó tin (Xem "Trung-Việt
quan hệ sử giản biên", đồng tác giả Hoàng Quốc An, Dương Vạn Tú, Dương
Lập Băng và Hoàng Tranh, Nhà xuất bản Nhân dân Quảng Tây xuất bản, Nam
Ninh, 1986). Vì làm thế, xa rời sự thật. Trương Phụ đưa người Giao Chỉ
sang Trung Quốc, đợt đầu tiên và đợt thứ hai vào tháng 10 năm Vĩnh Lạc
thứ 5 (1407). Ðột thứ ba vào tháng 11 năm đó. Lúc bấy giò, Nguyễn An
mới hơn 10 tuổi, lại chưa sang đến Trung Quốc, làm sao có thể phụ trách
thiết kế các công trình kiến thiết quan trọng ở Bắc Kinh? Ông Thanh An
nói năm 1407, Nguyễn An còn là một cậu bé, nhưng ngược dòng thời gian -
năm Vĩnh Lạc
thứ 4 (1406), Nguyễn An đã "hai mươi mấy tuổi" "đảm đương một công công
trình trọng đại", phụ trách thiết kế, xây dựng lưỡng cung và tam điện
lúc bấy giờ, lại càng khó hiểu (xem Làng Văn số 116 trang 67, bài " Ðất
nước ngàn năm văn hiến"). Nhưng nếu cho rằng lúc bấy giờ, Nguyễn An sinh
sống ở nước ngoài, mọi cống hiến của ông ta đều không dính dáng gì tới
người trong nước nên gạt bỏ Nguyễn An ra ngoài lịch sử Việt Nam thì tôi
thấy đó là chuyện đáng tiếc. Nếu cho vậy là đúng thì từ nay, khi học
lịch sử Việt Nam, chúng ta không nên nhắc lại những tên Lý Ông Trọng,
Trương Trọng, Lý Tiến, Lý Cầm, Khương Công Phụ [10] và hàng ngàn người
Việt Nam tài giỏi khác lúc sinh thời do hoàn cảnh phải sống nơi xa quê
cha đất tổ. Ðem Nguyễn An đi so sánh với một số người đời nay, thì tôi
thấy Nguyễn An vẫn đáng cho chúng ta khâm phục, kính mến. Vì ít nhất,
ông ta không phải là phường ích kỷ hại người, lừa thầy phản bạn, bán
nước buôn dân, bóc lột, đày ải đồng bào, đưa đất nước, dân tộc đến chỗ
bần cùng, lạc hậụ Tuy sống ở nước ngoài, nhưng Nguyễn An đã không làm
nhơ danh tổ tiên, dân tộc, để tiếng xấu lại cho muôn đời.
Cách
đây 6 năm, tôi có viết một bài nhan đề là "Năm Thìn kể chuyện Rồng"
phát biểu trên tạp chí Quê Mẹ số Xuân Giai Phẩm ở Pháp. Trong bài đó,
phần đầu bàn về nguồn gốc hình thành khái niệm "Rồng", phần thứ hai nói
về những diễn biến của ý nghĩa "Rồng"
qua các thời đại, phần cuối liên hệ tới hiện tình Việt Nam, đưa ra
nguyện vọng mong mỏi mọi người Việt Nam ngày nay, bất cứ đang sống trong
hoàn cảnh nào, đều nên sống sao cho ra sống, sống sao không hổ thẹn với
non sông đất Việt, sống sao không nhơ danh dòng giống Tiên Rồng. Hôm
nay, ngồi trước máy điện toán cá nhân, gõ mấy dòng chữ nói về Nguyễn An
này, người viết không có ý định khuyến khích mọi người bỏ nước ra đi tìm
cảnh giàu sang phú quý hay phục vụ cho nước ngoài để vinh thân phì gia,
tận hưởng vật chất, mà chỉ là muốn ghi lại một sự việc có liên quan tới
Việt Nam, hầu cung cấp sử liệu cho các sử gia tham khảo khi nghiên cứu,
và thành tâm mong mỏi những ai đang phải sống cuộc đời lưu vong nơi hải
ngoại hay đang phấn đấu ở trong nước nên cố gắng, sống sao cho ra sống,
sống sao không hổ thẹn với cha ông, tiên tổ, sống sao cho xứng đáng là
dòng dõi Lạc Hồng. Chỉ có thế thôi.
NGUYỄN SANG
San Jose ngày 12 - 4 - 1994
Chú thích:
.
Bài "Dân chúng Bắc Bình nên kỷ niệm Thái giám Nguyễn An, người An Nam"
phát biểu ngày 11-11-1947 trên Tuần san Sử địa báo "Cái Thế" xuất bản ở
Thiên Tân.
.
Bài "Nguyễn An, nhà kiến trúc thiên tài xây dựng Ðại Bắc Kinh" phát
biểu dưới bút danh là "Người Việt", đăng trên Nhật báo Tiến Bộ xuất bản ở
Thiên Tân ngày 2-2-1950.
.
Bài "Sự đóng góp cho Trung Quốc của người Giao Chỉ đời Minh" phát biểu
trong tập 2 quyển 3 tạp chí "Học Nguyên" ở Hương Cảng. Bài này sau được
thu vào tập "Minh sử luận tùng" xuất bản ở Ðài Loan. Trương Tú Dân là
một nhà sử học Trung Hoa, chuyên nghiên cứu về các vấn đề Việt Nam. Cho
đến năm 1988, tuy đã về hưu ở quê nhà, vẫn còn phát biểu bài vở bàn về
lịch sử Việt Nam. Nếu còn khỏe mạnh, năm nay ông đã 87 tuổi.
. Tây cung này vốn là phủ phiên vương Yên Vương ở vùng điện Quang Minh phía nam đường trong cửa Tây An Môn. (cũng có thuyết
cho rằng phủ Yên Vương là Cung Hưng Thánh của nhà Nguyên, địa điểm ở bờ
tây Bắc Hải và vùng vườn Tập Linh ngày nay). Vì nằm ở phía tây Cố cung,
nên gọi là Tây cung. Tây cung này xây dựng từ đời Hồng Vũ thứ
15 (1382), tổng số kiến trúc có 1630 ngôi, trong có cổng Phụng Thiên và
điện Phụng Thiên, có khác với ba điện Tây cung xây dựng sau năm Vĩnh Lạc thứ 15 (1417) có trên 8350 tòa kiến trúc, tức Cố cung ngày nay.
.
Ðời Minh có hai người cùng tên là Nguyễn An, đều là người Giao Chỉ. Một
người có tên là Á Lưu, là nhà kiến trúc, Thái giám; một người khác cũng tên là Nguyễn An, vốn là thợ trốn dịch. Sau làm tới chức Phó sứ Văn Tư Uyển, đến năm Thành Hóa năm thứ 20 (1484) hãy còn sống.
.
5 phủ 6 bộ: 5 phủ là: phủ Thái phó, phủ Thái úy, phủ Tư đồ, phủ Tư
không và phủ Ðại Tướng quân. 6 bộ là: Bộ Lại, Bộ Hộ, Bộ Binh, Bộ Lễ, Bộ
Hình và Bộ Công.
Phủ
Thái Phó là dinh thự của thầy nhà vua, cấp bậc Tễ Tướng; Phủ Thái úy là
dinh thự của võ quan cấp cao nhất toàn quốc; Phủ Tư đồ là dinh thự của
Hộ bộ Thượng thư; Phủ Tư Không là dinh thự của Công bộ Thượng thư; Phủ
Ðại Tướng quân là dinh thự của võ tướng cao cấp, người phụ trách việc
chinh chiến trong nước.
Bộ Lại phụ trách những công tác tuyển chọn, ủy nhiệm, bãi bỏ, khảo sát, thanh tra, thăng thưởng quan chức.
Bộ
Hộ chủ quản hộ tịch, ruộng đất, tiền tệ, thuế má, lương bổng quan chức
toàn quốc, tương đương với Bộ Nông nghiệp và Bộ Tài chính hiện naỵ
Bộ Binh chủ quản việc tuyển dụng, khảo sát các quan chức võ bị, luyện binh, vũ khí và trạm dịch, tương đương với Bộ Quốc phòng ngày naỵ
Bộ Hình chủ quản công việc hành chính Tư pháp, tương đương với Bộ Tư pháp ngày nay.
Bộ
Lễ chủ quản những nghi lễ cúng tế quan trọng của triều đình, tổ chức
thi cử, tiếp đãi khách nước ngoài, tương đương với Bộ Giáo dục và Vụ Lễ
tân của Bộ Ngoại giao ngày nay.
Bộ
Công chủ quản xây dựng các công trình thủy lợi, đồn điền, các công
trình kiến trúc thổ mộc quan trọng, tương đương với Bộ Thủy lợi và Bộ
Kiến trúc ngày nay.
Ðứng
đầu mỗi bộ là chức quan Thượng thư, tương đương với chức Bộ trưởng ngày
naỵ chức Thị lang tương đương với chức Phó Bộ trưởng hay Thứ trưởng
ngày nay.
. Phủ Tôn Nhân là cơ quan nắm giữ danh sách và các vấn đề tước lộc, thưởng phạt trong hoàng tộc.
.
Hồng Lô Tự là cơ quan quản lý công việc cúng tế, phán đoán kiết hung,
tiếp khách ngoại quốc... Cơ quan này sau gộp vào Bộ Lễ, tương đương Vụ
Lễ Tân ngày nay.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét